Truyện Kiều (tiếp theo) - Nỗi thương mình

I. Tiểu dẫn

- Khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến nhà chứa của Tú Bà, Kiều quyết liệt không bán thân nhưng sau khi rơi vào bẫy của Tú Bà, nàng phải buộc ra tiếp khách.

- Đoạn trích Nỗi thương mình (từ câu 1229 đến 1248) miêu tả tâm trạng Thúy Kiều trong cảnh sống ô nhục ở lầu xanh của Tú Bà và nỗi niềm thương thân xót phận của nàng.

II. Văn bản (SGK)

1. Bố cục đoạn trích và nội dung mỗi đoạn.

- Đoạn 1 (10 câu đầu): Tình cảnh trớ trêu và tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều.

- Đoạn 2 (còn lại): Thái độ thờ ơ của Thúy Kiều trước cảnh sống ở lầu xanh.

2. Ý nghĩa của việc sử dụng bút pháp ước lệ trong đoạn trích? Qua đó, có thể nói gì về tình cảm của tác giả đối với nhân vật?

- Bút pháp ước lệ là dùng các hình ảnh ẩn dụ, các điển tích, điển cố như: Bướm lả ong lơi; lá gió cành chim; sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh... Bút pháp ước lệ đã giúp cho Nguyễn Du miêu tả chốn lầu xanh nhưng không dung tục.

- Việc sử dụng bút pháp ước lệ không phải là né tránh hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua. Ngược lại, Nguyễn Du giữ hình ảnh cao đẹp cho nhân vật. Bằng cách khắc họa tâm trạng, thái độ của Kiều, nhà thơ đã làm cho chân dung Kiều ngời sáng giữa chốn bùn nhơ.

3. Những dạng thức đối xứng khác nhau được sử dụng trong đoạn trích và giá trị nghệ thuật của chúng.

- Đây là đoạn trích mà Nguyễn Du khai thác triệt để các hình thức đối xứng nhằm tô đậm tâm sự chua chát, bẽ bàng, nỗi thương tâm, xót phận của nàng Kiều.

+ Các điệp từ sóng đôi ít nhiều có tính chất đối: Khi, lúc, khi sao, giờ sao, vui... vui, ai... ai.

 + Các tiểu đối: Khi tỉnh rượu - lúc tàn canh, dày gió - dạn sương; bướm chán - ong chường; nửa rèm tuyết ngậm - bốn bề trăng thâu...

+ Đối xứng ở cấp thấp nhất là tiểu đối trong bốn chữ: Bướm lả - ong lơi; bướm chán - ong chường; mưa Sở - mây Tần, lá gió - cành chim, dày gió - tàn sương, gió tựa - hoa kề...

+ Đây là thủ pháp tách những cụm từ thông thường tạo thành quan hệ đối xứng nhằm nhấn mạnh ở mức độ cao hơn so với những cụm từ không có tiểu đối (dày dặn gió sương, bướm ong lả lơi, bướm ong chán chường...).

- Lời thơ là lời độc thoại nội tâm của nhân vật, trực tiếp phơi mở cụ thể và chân thực tâm trạng của nàng Kiều. Đó là tâm trạng xót thương cho bản thân, số phận. Hồi tưởng đến quá khứ, đến cuộc sống êm đềm, nền nếp trước đây, càng đau xót, thương thân và bất lực. Nhịp thơ nhanh, gấp gáp, dồn dập thể hiện tâm trạng sóng cồn liên miên không dứt, nhức nhối trong trái tim Kiều.

- Từ xuân trong câu thơ không chỉ mùa xuân, tuổi trẻ, vẻ đẹp hay sức trẻ... mà chỉ hạnh phúc lứa đôi. Trong cảnh sống làm vợ thiên hạ, Kiều chỉ thấy nhục nhã, trơ lì và vô cảm.

- Cách dùng điệp từ sóng đôi và tiểu đối có giá trị biểu cảm sâu sắc, vừa diễn tả được nỗi tức tưởi, vừa thể hiện nỗi nghẹn ngào, ấm ức, vừa như sự đay nghiến cho số kiếp bẽ bàng của nàng Kiều.

4. Nỗi ”thương mình" của nhân vật có ý nghĩa mới mẻ như thế nào đối với văn học trung đại?

- Nỗi “thương mình” của nhân vật là sự tự ý thức về cá nhân trong thời đại mà cái tôi có xu hướng triệt tiêu. Hơn nữa, đây là ý thức cá nhân của một phụ nữ, đối tượng được giáo dục an phận thủ thường, cam chịu, nhẫn nhục. Sự tự ý thức về bản thân của nàng Kiều có ý nghĩa "cách mạng". Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà còn biết ý thức về phẩm giá, nhân cách bản thân.

- Ý thức cá nhân đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong văn học trung đại, nhưng ở những sáng tác của Nguyễn Du, đặc biệt là Truyện Kiều, vấn đề này được biểu hiện thấm thía hơn. "Bản ngã" của nhân vật được Nguyễn Du biểu hiện độc đáo, sâu sắc trong tư tưởng nhân đạo.

5. Trong cuộc tái ngộ Kim Trọng nói với Kiều ”Như nàng lấy hiếu làm trinh - Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”. Theo anh (chị) đoạn trích này có thể góp phần lí giải câu nói đó như thế nào?

- Lời Kim Trọng nói với Kiều trong ngày tái ngộ đã xác nhận chữ "trinh" và giá trị nhân phẩm của nàng. Vì chữ "hiếu", Kiều đã hi sinh cả sự trinh trắng, trải qua mười lăm năm sống cuộc đời gió bụi, qua tay Mã Giám Sinh, làm vợ Thúc Sinh rồi Từ Hải, hết rơi vào lầu xanh của Tú Bà lại rơi vào lầu xanh của Bạc Bà, Bạc Hạnh... nhưng "bụi nào cho dục được mình ấy vay?”. Tâm hồn, nhân cách, phẩm giá của Kiều vẫn trong trắng, cao thượng.

- Đoạn trích khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của Kiều qua miêu tả tâm trạng, thái độ, ý thức của Kiều trước bi kịch của cuộc đời.

+ Thái độ, tâm trạng của Kiều luôn ý thức về nhân phẩm nhưng phải từ bỏ nhân phẩm; khao khát tình yêu trong sáng tốt đẹp, lại rơi vào cuộc sống bẩn thỉu, nhơ nhớp. Vì thế mà đau đớn, ê chề, bẽ bàng, chua chát.

+ Tâm trạng, thái độ của Kiều được khắc họa trong bối cảnh "khi tỉnh rượu lúc tàn canh". Đó là lúc đêm khuya, con người trở về sống thật với mình nghe lòng nức nở, thổn thức:

"Giật mình, mình lại thương mình xót xa".

Câu thơ có tới ba chữ mình với cách ngắt nhịp bất thường (2/4/2) đã diễn tả trạng thái tâm hồn đầy biến động: Bàng hoàng - thảng thốt - đau đớn.

- Bốn câu tiếp theo là bốn câu hỏi liên tiếp, dồn dập (Khi sao...? Giờ sao...? Mặt sao..? Thân sao...?). Câu thứ nhất gợi nhớ về quá khứ, ba câu sau gợi nỗi đau đớn, xót xa, ê chề trước hiện tại. Sự đối lập hiện tại đã bao trùm, đè nặng, chôn vùi quá khứ. Bốn từ ''sao'' láy đi láy lại bộc lộ nỗi xót xa cùng cực của Thúy Kiều. Những lời thương thân xót phận ấy và sự tự ý thức của Thúy Kiều về nhân phẩm, về nhân cách con người làm vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Kiều sáng ngời giữa một xã hội bạo tàn, nhơ bẩn.