Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (Trần Đình Hượu)
I. Tiểu dẫn
- Trần Đình Hượu (1926 - 1995), quê ở Võ Liệt, Thanh Chương, Nghệ An, ông là nhà nghiên cứu các vấn đề lịch sử tư tưởng và văn học Việt Nam.
- Năm 2000, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ.
- Các công trình tiêu biểu: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930 (1988), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (1955), Đến hiện đại từ truyền thống (1996)…
- Văn bản được trích từ phần II, bài Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, in trong cuốn Đến hiện đại từ truyền thống.
II. Văn bản (SGK)
1. Đặc điểm của vốn văn hóa dân tộc dựa trên những phương diện cụ thể
- Tôn giáo, nghệ thuật (kiến trúc, hội họa văn học):
+ Tôn giáo: Người Việt Nam không cuồng tín, cực đoan mà dung hòa, tạo nên sự hài hòa nhưng không tìm sự siêu thoát, siêu việt về tinh thần bằng tôn giáo.
+ Nước Việt và người Việt có sự giao lưu văn hóa lâu đời, sự tiếp xúc, tiếp nhận và biến đổi các giá trị văn hóa của một số nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới. Đó là sự tiếp nhận có chọn lọc và biến đổi những tinh hoa văn hóa nước ngoài của người Việt.
+ Nghệ thuật: Sáng tạo những tác phẩm tinh tế nhưng không có quy mô lớn, không mang vẻ đẹp tráng lệ, kì vĩ, phi thường.
+ Âm nhạc, hội họa kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ... Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, một ngành văn hóa nào đó trở thành đài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hóa.
- Ứng xử (giao tiếp cộng đồng, tập quán): Trọng tình nghĩa không chú ý nhiều đến trí dũng, khéo léo nhưng không cầu thị, cực đoan, thích yên ổn.
+ Coi trọng đời sống hiện thế trần tục nhưng không bám lấy hiện thế, quá sợ hãi cái chết.
+ Không ca tụng trí tuệ mà coi trọng sự khôn khéo, thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn.
+ Con người ưa chuộng của người Việt là con người hiền lành, tình nghĩa.
+ Coi sự giàu sang là tạm thời, cho nên không vì thế mà giành giật cho mình.
+ Giao tiếp, ứng xử chuộng sự hợp tình, hợp lí.
- Sinh hoạt (ăn, ở, mặc) chừng mực, vừa phải:
+ Người Việt mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp làm ăn no đủ, sống thanh thản, thong thả.
+ Cách sống của người Việt là yên phận thủ thường.
+ Áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì.
- Quan niệm về cái đẹp trong suy nghĩ của người Việt vừa xinh, vừa khéo.
+ Người Việt không thích cái tráng lệ huy hoàng, không say mê cái huyền ảo.
+ Màu sắc ưa chuộng của người Việt là dịu dàng, thanh nhã.
2. Đặc điểm nổi bật nhất trong sáng tạo văn hóa của Việt Nam
- Đặc điểm nổi bật của sáng tạo văn hóa Việt Nam là tạo ra một cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, những con người hiền lành, tình nghĩa, sống có văn hóa trên một cái nền nhân bản.
- Dẫn chứng:
+ Công trình kiến trúc chùa Một Cột, các lăng tẩm của vua chúa đời Nguyễn...
+ Lời ăn tiếng nói của nhân dân trong tục ngữ, thành ngữ và ca dao “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe”, “Lời chào cao hơn mâm cỗ”...
+ Có thể đối chiếu với thực tế đời sống của các dân tộc khác: Sự kì vĩ của những Kim tự tháp (Ai Cập), của Vạn lí trường thành (Trung Quốc)...
3. Những đặc điểm hạn chế của vốn văn hóa dân tộc
Hạn chế của nền văn hóa truyền thông Việt Nam là không có khát vọng và sáng tạo lớn trong cuộc sống, không mong cao xa, khác thường, hơn người, trí tuệ không được đề cao.
4. Những tôn giáo ảnh hưởng mạnh nhất đến văn hóa truyền thống Việt Nam
- Những tôn giáo ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống Việt Nam gồm Phật giáo và Nho giáo.
+ Để tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc, người Việt Nam đã xác nhận tư tưởng của các tôn giáo này theo hướng "Phật giáo không được tiếp nhận ở khía cạnh trí tuệ, cầu giải thoát mà Nhà nho cũng không tiếp nhận ở nghi lễ tủn mủn, giáo điều khắc nghiệt".
+ Người Việt tiếp nhận tôn giáo để tạo ra một cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, những con người hiền lành, tình nghĩa.
- Dẫn chứng trong văn học:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
(Bình ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
+ Tư tưởng "nhân nghĩa", "yên dân", "điếu dân phạt tội" (thương dân, phạt kẻ có tội) có nguồn gốc từ Nho giáo (Đạo Khổng).
“Thương thay thân phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
+ Quan niệm về thân phận, số kiếp... là do ảnh hưởng của đạo Phật.
5. Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa
- Khi nhận xét "Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa", tác giả không hàm nghĩa khen hay chê. Tùy từng thời điểm lịch sử, đặc trưng đó có thể trở thành tích cực hay hạn chế.
- Sau khi nêu những điểm "không đặc sắc" (hạn chế) của văn hóa Việt Nam (không đồng nghĩa với việc "chê") tác giả lại khẳng định "người Việt Nam có nền văn hóa của mình" (không đồng nghĩa với việc "khen"). Cách lập luận của tác giả không mâu thuẫn vì theo tác giả, việc đi tìm cái riêng của văn hóa Việt Nam không nhất thiết phải gắn liền với việc chứng minh dân tộc Việt Nam không thua kém các dân tộc khác.
Văn hóa là sự tổng hoà của nhiều yếu tố, trong đó lối sống, quan niệm sống là yếu tố then chốt. Khi quan sát thấy người Việt Nam có lối sống riêng, quan niệm sống riêng, tác giả hoàn toàn có cơ sở để khẳng định: Người Việt Nam có nền văn hóa riêng. Không đặc sắc ở một vài điểm thường hay được nhắc tới không có nghĩa là không có gì.
- Tác giả đã có một quan niệm toàn diện về văn hóa và triển khai công việc nghiên cứu của mình dựa vào việc khảo sát thực tế khách quan chứ không phải vào các "tri thức tiên nghiệm".
6. Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hóa
- Văn hóa Việt Nam vừa là sản phẩm sáng tạo của dân tộc, vừa là sản phẩm "đồng hóa" từ các yếu tố của các nền văn hóa khác. Văn hóa Việt Nam không tồn tại cô lập mà có mối liên hệ mật thiết với các nền văn hóa của thế giới, là một bộ phận của văn hóa thế giới.
- Chứng minh:
+ Về lịch sử: Dân tộc ta trải qua một thời gian dài bị đô hộ, áp bức và đồng hóa. Những giá trị văn hóa gốc phần nhiều đã bị mai một, xóa nhòa. Bởi vậy, văn hóa Việt Nam không thể trông cậy vào khả năng tạo tác mà phải trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngoài. Tuy nhiên, dân tộc ta có bản lĩnh trong vấn đề này.
+ Đạo Phật đã bị "Việt hóa" khi vào Việt Nam, người Việt Nam không tiếp thu toàn bộ giáo lí của đạo Phật mà chỉ tiếp thu lòng nhân ái, bao dung, vô lượng, cùng những yếu tố nhân văn tích cực khác của Phật. Trong những trường hợp khác, người dân thường Việt Nam sẵn sàng có cách ứng xử khác "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy" (tục ngữ).
+ Tư tưởng của Nho giáo cũng "Việt hóa" theo tinh thần "thiết thực, linh hoạt, dung hòa”. Theo Nho giáo, chữ hiếu, tình là những quy định về đạo đức. Khi gặp mâu thuẫn người con phải hi sinh chữ tình cho chữ hiếu. Trong văn học cổ Trung Quốc đã có nhiều tấm gương như nàng Bân, ả Tạ.. Còn nàng Kiều của Nguyễn Du trong Truyện Kiều nặng cả chữ hiếu lẫn chữ tình. Đó là sự tiếp thu văn hóa Nho giáo nhưng đã sáng tạo theo hướng "Việt hóa".
+ Văn hóa Việt Nam đã Việt hóa những tư tưởng của văn hóa phương Tây hiện đại trên tinh thần độc lập dân tộc. Trong Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ. Người tiếp thu tư tưởng nhân quyền và dân quyền, nhưng các tư tưởng lớn này đã được chế tác thành quyền độc lập, tự do của dân tộc, đó là sự tiếp thu trên tinh thần của tư tưởng yêu nước Việt Nam.