Đọc thêm: Xin lập khoa luật (Trích Tế cấp bất điều - Nguyễn Trường Tộ)
I. Tiểu dẫn
- Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) quê ở Bùi Chu, Hưng Trung, Hưng Nguyên, Nghệ An; ông thông thạo cả Hán học và Tây học nên có tầm nhìn xa hơn những nho sĩ đương thời. Ông viết nhiều bản điều trần gửi nhà Nguyễn đề nghị thực thi các biện pháp đổi mới đất nước, đối phó với họa xâm lăng từ phương Tây.
- Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã sưu tầm được khoảng 60 bản di cảo của Nguyễn Trường Tộ, nhiều đề xuất quan trọng của ông được ghi trong Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm gấp). Bài Xin lập khoa luật trích từ bản điều trần số 27 bàn về sự cần thiết của luật pháp đối với xã hội nhằm mục đích thuyết phục triều đình cho mở khoa Luật.
II. Văn bản (SGK)
1. Luật pháp ở các nước phương Tây
- Theo Nguyễn Trường Tộ, nội dung của luật bao gồm: Kỉ cương, uy quyền, chính lệnh (chính sách và luật pháp) của quốc gia.
- Tác giả khẳng định "Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật" và ông dẫn chứng "ở các nước phương Tây, phàm những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị phiếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc". Từ dẫn chứng cho thấy tác giả rất đề cao luật, đề cao những người hiểu biết luật và có khả năng dùng luật để điều khiển công việc quốc gia.
2. Thái độ của vua, quan và dân trước pháp luật
- Kỉ cương, uy quyền, chính lệnh là để duy trì sự tồn tại của đất nước; vì vậy, tác giả khẳng định “Bất luận quan hay dân mọi người đều phải học luật nước”.
- Luật đã bao trùm lên tất cả, nếu không có các bộ luật thì làm sao giữ được kỉ cương phép nước. Từ quan cho đến dân đều phải hiểu và làm theo luật. Xưa đã đúng, nay càng thấy đúng và thấm thía hơn.
3. Nho học và pháp luật
- Theo tác giả, Nho học không có truyền thống tôn trọng luật pháp. Bởi "Biết rằng đạo làm người không gì bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng. Bởi vậy xưa nay học đã nhiều mà mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm?".
- "Từ xưa đến nay các vua chúa nắm quyền thống trị cứu nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách vở khác cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước không có luật thì dù có vạn quyển sách cũng không thể trị dân được".
4. Mối quan hệ giữa đạo đức và luật pháp
- Dù đề cao luật pháp, nhưng theo tác giả, luật pháp và đạo đức gắn bó chặt chẽ với nhau. Tác giả khẳng định "Nếu bảo luật chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi, thế là không biết rằng trái luật là tội, giữ đúng luật là đức. Nếu tận dụng cái lẽ công bằng trong luật mà xử thì mọi quyền, pháp trong luật đều là đạo đức. Có cái đức nào lớn hơn chí công vô tư không?".
- Như thế, cái đức của pháp luật chính là lẽ công bằng, chí công vô tư đó chính là cái gốc của đức trong luật.
5. Tác dụng của văn chương đối với nghệ thuật biện luận trong đoạn trích
- Để tăng thêm sức thuyết phục, Nguyễn Trường Tộ đưa ra quan niệm luật của đạo Nho “Từ tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đều đầy đủ” (tam cương chỉ quan hệ của vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, còn ngũ thường gồm nhân, trí, tín, lễ, nghĩa). Tam cương ngũ thường là luật bao trùm toàn bộ xã hội và gia đình dưới chế độ phong kiến, là trụ cột để giữ kỉ cương của chế độ phong kiến.
Tác giả phê phán đạo Nho vô tích sự, nói suông không có tác dụng, vì vậy phải có luật và luật phải gắn với thực tiễn hành động của con người. Đó là làm theo pháp luật.
Tác giả dẫn lời của Khổng Tử “Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi mình mà biết tự trách phạt”. Đúng là chiêu thức “gậy ông đập lưng ông”.
- Phê phán các loại sách ra đời ở thời phong kiến “Sách vở chỉ chép nào là sự tích chính sự thời xưa của cổ nhân, nào là những bài luận hay ho của người xưa để lại, nào là những áng văn chương trau chuốt của chư tử (học giả thời cổ đại), nào những tiểu thuyết dã sử của những người hiếu sự đặt bày. Trong đó hay có, dở có, người nói này, người nói khác, xét kĩ những thứ sách vở đó chỉ làm rối chí thêm chẳng được tích sự gì”.
Tác giả lại lấy lời của Khổng Tử để phủ nhận “Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”. Cũng là biện pháp lập luận “gậy ông đập lưng ông”. Tác giả đưa ra dẫn chứng “Thử xem có những nhà nho suốt đời đọc sách đáng lẽ cử chỉ của họ phải làm khuôn thước cho đời, vậy mà tại sao có nhiều người cuộc đời của họ và ứng xử của họ còn tệ hơn những người quê mùa chất phác”.
- Lời lẽ ấy hàm ý vì sao lại có tình trạng như vậy? Chỉ có thể trả lời vì họ không được học luật. Vì thế mới cần có luật.