Đọc thêm: Nỗi oán của người phòng khuê (Khuê oán)

I. Tiểu dẫn

- Vương Xương Linh (698 - 756), tự là Thiếu Bá, quê ở Trường An (nay là thành phố Tân An, tỉnh Thiểm Tây - Trung Quốc). Ông là nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường, ông để lại 186 bài thơ, trong đó đặc sắc nhất là thơ thất ngôn tuyệt cú.

- Nội dung thơ Vương Xương Linh thường đề cập cuộc sống của tướng sĩ nơi biên cương, nỗi oán hờn của người cung nữ, nỗi li sầu biệt hận của người thiếu phụ khuê các, tình bạn bè chân thành trong sáng...

- Phong cách thơ Vương Xương Linh trong trẻo, tinh tế, thanh tân được người đời hâm mộ.

- Bài thơ Nỗi oán của người phòng khuê (Khuê oán) là tâm trạng của người thiếu phụ diễn biến theo tác động của ngoại cảnh và tinh thần phản đối chiến tranh.

II. Văn bản (SGK)

1. Anh (chị) có nhận xét gì về nghệ thuât câu từ của bài thơ thể hiện qua quá trình chuyển biến tâm trạng của người khuê phụ?

- Cấu tứ (hình ảnh, sự kiện, chi tiết tiêu biểu của thơ để cảm xúc vận động xung quanh) của bài thơ rất đặc biệt. Ở hai câu đầu, người thiếu phụ “không biết buồn” mà say sưa chìm đắm trong trạng thái sảng khoái. Người thiếu phụ ấy trang điểm lộng lẫy, bước lên lầu cao để thưởng ngoạn cảnh xuân.

- Tuổi xuân, khuôn mặt trang điểm của nàng và cả cái tầng lầu góp phần tô đẹp cảnh ngày xuân. Trạng thái tâm lí nhân vật, không gian và thời gian hài hòa một cách tuyệt đối nhưng hình ảnh ấy đã đảo ngược so với tiêu đề bài thơ (Nỗi oán của người phòng khuê). Cấu tứ đạt đến trình độ nghệ thuật là tác giả tạo thế cho việc biểu hiện một cách đột xuất, rõ nét và tự nhiên quá trình chuyển biến tâm lí của người thiếu phụ. Đang vui, đang lâng lâng sảng khoái trang điểm đẹp để ngắm ngày xuân thì:

“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

(Nhác trông vẻ liễu bên đường).

(Đầu đường chợt thấy màu dương liễu).

Hối giao phu tế mịch phong hầu”.

("Phong hầu” nghĩa dại xui chàng kiếm chi).

(Hối để chàng đi kiếm tước hầu).

2. Vì sao thấy “màu dương liễu” nàng lại hối hận vì để chàng đi kiếm tước hầu?

- Mầm liễu, hoa mai trong thơ cổ điển Trung Quốc là biểu tượng mùa xuân, liễu còn tượng trưng cho sự li biệt. Sự xuất hiện bạt ngàn dương liễu làm dấy lên bao cảm xúc liên tưởng, hồi ức của thiếu phụ. Làm nàng nhớ lại khoảnh khắc chia tay chồng và gợi nhớ những ngày tháng sống trong cô đơn, nghĩ đến tuổi xuân dần qua, nghĩ tới những điều rủi ro mà chồng mình có thể gặp phải. Câu thơ thứ ba đóng vai trò là ý chuyển mạch cảm xúc. Nó là mạch nối để từ đáy lòng người thiếu phụ ấy thốt lên lời tự oán trách sâu lắng mà quyết liệt:

“Hối giao phu tế mịch phong hầu”.

(“Phong hầu” nghĩ dại xui chàng kiếm chi!).

(Hối để chàng đi kiếm tước hầu).

- Hình thức là lời oán trách song bản chất là sự phủ định phong kiến. Cấu tứ của bài thơ rất phù hợp với tâm trạng của ngưòi thiếu phụ.

-Nhìn “màu dương liễu” nàng chợt nghĩ tới tuổi xuân ngày một qua đi, tuổi già sẽ đến với nàng. Những năm tháng sống trong cô đơn chờ đợi và biết đâu người chồng ấy không trở về. Vì thế mà nàng hối hận vì đã khuyên chàng đi kiếm ấn phong hầu.

3. Vì sao toàn bài chỉ có 28 chữ, bài “Khuê oán” lại được coi là bài thơ tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa của con người thời Đường?

- Bài thơ là sự diễn biến tâm trạng của người thiếu phụ. Nàng sung sướng, lâng lâng đầy lãng mạn trẻ trung, ngày xuân phơi phới từng bước nên lầu, ngắm gương trang điểm. Song cách vào đề ấy chỉ là đẩy cao nhận thức và chuyển biến tâm lí của người thiếu phụ có chồng nơi trận mạc khi nàng bất chợt bắt gặp “màu dương liễu”. Nàng nghĩ tới bao mùa xuân đã trôi qua, ai gây nên cảnh chia li này để nàng phải sống trong cô đơn buồn tẻ? Chồng nàng nơi chiến trận sẽ ra sao? Liệu có trở về hay không?

- Chiến tranh phi nghĩa là nguyên nhân của mọi khổ đau. Vì vậy “Khuê oán” đâu chỉ là lời tự oán của người thiếu phụ. Oán trách mình chỉ là hình thức, là cái cớ để Vương Xương Linh lên án chiến tranh phi nghĩa đời Đường.

- Chiến tranh để lại biết bao hậu quả, mà nạn nhân của chiến tranh là bà mẹ, người vợ và những đứa con. Vì thế đây là lời tố cáo chiến tranh, là những vần thơ phản chiến.