Đọc thêm: Khe chim kêu (Điểu minh giản)

I. Tiễu dẫn

- Vương Duy (701 - 761), tự là Ma Cật, quê ở đất Kì, Thái Nguyên (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc). Tuy làm quan nhưng ông thường sống như một ẩn sĩ, ông sùng tín đạo Phật, thơ ông mang ý vị Thiền nên được gọi là “Thi Phật”.

- Vương Duy để lại hơn 400 bài thơ và nhiều tác phẩm hội họa. Thơ ông thường lấy chủ đề cảnh sắc thiên nhiên đa dạng thể hiện sự thanh nhàn, yên tĩnh.

- Bài thơ Khe chim kêu (Điểu minh giản) là tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của nhà thơ trong đêm yên tĩnh. Giá trị nghệ thuật của bài thơ là khả năng quan sát, lựa chọn từ ngữ, hình ảnh, tạo ra sự đối lập giữa động và tĩnh.

II. Văn bản (SGK)

1. Cây quế cành lá sum sê nhưng hoa rất nhỏ. Nhà thơ cảm nhận đươc hoa quế rơi. Chi tiết ấy nói lên điều gì về cảnh vật đêm xuân và tâm hồn thi sĩ?

Cây quế cành lá sum sê nhưng hoa rất nhỏ mà nhà thơ vẫn cảm nhận được hoa quế rơi chứng tỏ đêm xuân rất thanh tĩnh vả cảm nhận của nhà thơ rất tinh tế. Ông sống trong tâm trạng thật thanh nhàn nên lắng nghe được tiếng rơi rất nhỏ ấy:

“Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,

Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh”.

(Người nhàn hoa quế rụng.

Đêm xuân núi vắng teo).

2. Mối quan hệ giữa “động” và “tĩnh”, “hình” và “âm” được thể hiện như thế nào trong bài thơ?

Mối quan hệ giữa động và tĩnh, hình và âm được thể hiện:

- Giữa người và cảnh (người nhàn/hoa quế rụng).

- Giữa đêm trăng thanh tĩnh và tiếng chim kêu, biểu hiện cảm xúc vừa tinh tế vừa sôi động trong mối quan hệ hòa cảm giữa thiên nhiên và con người. Nhà thơ lắng nghe được những xao động nhỏ bé xung quanh (tiếng hoa quế rơi). Trăng sáng giữa đêm xuân, núi rừng cũng bừng lên vẻ đẹp cộng thêm tiếng chim kêu làm cho bức tranh có hồn, có sự sống vẫy gọi.