Chiều tối (Mộ) (Hồ Chí Minh)

I. Tiểu dẫn

- Tháng 8/1942, Bác Hồ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong 13 tháng, trong thời gian này, Bác đã sáng tác 134 bài thơ chữ Hán và sau này được tập hợp thành tập thơ Nhật kí trong tù. Tập thơ được dịch ra tiếng Việt và in lần đầu vào năm 1960.

- Bài thơ Chiều tối (Mộ) là bài thứ 31 của tập thơ, được Bác viết trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.

II. Văn bản (SGK)

1. So sánh bản dịch thơ với bản dịch nghĩa và nguyên tác.

- Câu 1 được dịch sát.

- Ở câu 2, bản dịch chưa dịch chữ "cô" (cô đơn, lẻ loi) trong "cô vân"; chữ "mạn mạn" dịch "trôi nhẹ" là chưa sát.

- Trong câu 3 thừa chữ "tối", làm mất đi sự hàm súc của câu thơ.

- Câu 4 được dịch tương đối thoát ý.

2. Bức tranh thiên nhiên và cảm xúc của nhà thơ trong hai câu thơ đầu.

- Chiều tối là thời khắc cuối cùng của một ngày và với một tù nhân, đây là chặng cuối cùng của một ngày đày ải.

+ Thời gian và hoàn cảnh dễ gây tâm trạng mệt mỏi, chán chường nhưng với Bác, cảm hứng thơ đến thật tự nhiên.

+ Trời về chiều trên đường núi, người tù ngước lên cao để đón ánh sáng cuối cùng của ngày và nhìn thấy cánh chim mỏi mệt đang bay về tổ, thấy chùm mây chầm chậm trôi qua.

+ Bài thơ không gợi tả màu sắc mà người đọc vẫn cảm thấy rừng núi chiều tối thật âm u, thật vắng vẻ, quạnh hiu.

- Trong thơ cổ điển phương Đông, cánh chim bay về tổ thường mang ý nghĩa biểu tượng cho buổi chiều tà.

+ Cánh chim chiều mang ý nghĩa không gian, thời gian, sự khác biệt trong thơ của Bác không phải là cánh chim "bay" (trạng thái vận động) mà là cánh chim "mỏi" (cảm nhận).

+ Có thể thấy sự gần gũi, tương đồng giữa con người và cánh chim kia. Suốt một ngày kiếm ăn, cánh chim đã mệt mỏi và người tù cũng rã rời sau một ngày lê bước trên con đường đày ải.

+ Trong ý thơ có sự hòa hợp và cảm thông giữa con người với thiên nhiên, tạo vật mà cội nguồn là tình yêu mênh mông của Bác.

- Câu thơ thứ hai trong bản dịch không thể hiện được hết ý của câu thơ trong nguyên tác.

+ Trong thơ Bác không phải là áng mây trắng gợi sự vĩnh hằng, hay tầng mây lơ lửng gợi sự không vĩnh viễn mà mang nỗi khắc khoải, mơ hồ của con người trước hư không.

+ Đây chỉ là một chòm mây quen thuộc trên bầu trời, nó gợi về cái cao rộng, trong trẻo, êm ả của một chiều thu nơi cuối rừng Quảng Tây.

+ Không gian như mênh mông vô tận và thời gian như ngừng trôi. Chòm mây như có hồn, như mang tâm trạng. Nó cô đơn, lẻ loi và lặng lẽ, lờ lững trôi giữa không gian trời chiều.

- Hai câu thơ đầu của Chiều tối thấm thía nỗi buồn vì cảnh buồn và người buồn.

+ Cánh chim bay về tổ gợi niềm mong ước sum họp, chòm mây đơn độc trôi chầm chậm về phía trời xa gợi thân phận lênh đênh nơi đất khách quê người.

+ Tuy nhiên, vẻ đẹp của hai câu thơ đã thể hiện được bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ, nếu không có ý chí và nghị lực thì không thể có những câu thơ cảm nhận thiên nhiên sâu sắc và tinh tế trong hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt.

3. Bức tranh đời sống trong hai câu thơ cuối:

- Nếu trong hai câu thơ đầu, cảnh vật mang tính ước lệ cổ điển thì hình ảnh ở trong hai câu thơ cuối được gợi tả cụ thể, sinh động như một bức tranh hiện thực.

+ Trong sự đối sánh với hình ảnh cánh chim và chòm mây, hình ảnh cô gái xay ngô nổi bật như trung tâm của bức tranh thiên nhiên.

+ Bức tranh trong hai câu cuối vẽ cảnh người thiếu nữ trong lao động. Trong hoàn cảnh đầy tâm trạng, Bác đã quên đi cảnh ngộ đau khổ của mình đế cảm nhận cuộc sống của nhân dân. Câu thơ cho thấy sự quan tâm và tình yêu thương của Bác với những người lao động nghèo.

- Câu thơ thứ ba nguyên nghĩa là "Cô gái xóm núi xay ngô" là một câu miêu tả chân thật, giản dị nhịp sống hằng ngày. Bài thơ từ bức tranh thiên nhiên chuyển sang bức tranh đời sống, từ cảnh trời mây chim muông chuyển sang cảnh con người lao động.

+ Hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh, sống động và trở nên đáng quý, đáng tôn trọng giữa núi rừng chiều tối âm u, heo hút, đem lại cho người đi đường lúc chiều hôm hơi ấm của sự sống, niềm vui hạnh phúc và hạnh phúc trong lao động của con người.

+ Hai câu cuối tạo nên một nhịp điệu đều và khỏe khoắn nhờ sự vắt dòng giữa cụm từ "ma bao túc" ở câu 3 với "bao túc ma hoàn" ở câu 4.

+ Sự nối âm liên hoàn, nhịp nhàng diễn tả vòng quay không dứt của động tác xay ngô, qua đó có thể thấy cô gái thật chăm chỉ, cần mẫn với công việc của mình.

+ Đến câu thơ này, không gian mở ban đầu được thu nhỏ lại: Từ cảnh trời mây bao la đến cảnh cô gái xay ngô và cuối cùng là cảnh bếp lửa hồng. Bếp lửa đã hồng lên, buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối, nhưng không phải là đêm tối lạnh lẽo, âm u mà là đêm tối ấm áp, bừng sáng.

- Nếu bài thơ là một bức tranh thì chấm lửa đỏ mang lại thần sắc cho toàn cảnh và dường như làm tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người đang cất bước đường xa.

- Hình ảnh cô gái và bếp lửa tượng trưng cho cảnh gia đình, công việc, sự nghỉ ngơi và sum họp. Thấp thoáng trong những hình ảnh ấy là ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người đang lưu lạc xa nhà, xa quê hương đất nước.

- Bài thơ vận động từ ánh chiều âm u, tăm tối đến ánh lửa hồng, rực rỡ, ấm áp; từ nỗi buồn đến niềm vui cho thấy cái nhìn lạc quan yêu đời và tình yêu thương nhân dân của một con người.

4. Nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của bài thơ.

- Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu cũ) vừa có nét hiện đại (bút pháp tả thực với những hình ảnh dân dã, đời thường).

- Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả lại vừa gợi cảm (quyện điểu, cô vân). Biện pháp láy âm vắt dòng ở câu 3 và câu 4 tạo nhịp thơ khoẻ khoắn. Ngoài ra bài thơ có những chữ rất quan trọng, có thể làm "sáng" lên cả bài thơ, như chữ "hồng" trong câu thơ cuối.