Các thao tác nghị luận

I. Khái niệm

1. Thao tác được dùng để chỉ việc thực hiện những động tác theo đúng trình tự và yêu cầu kĩ thuật nhất định.

2. Thao tác nghị luận là một trong những loại thao tác con người thường tiến hành trong đời sống.

- Một số thao tác nghị luận thường gặp: Phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp và so sánh là những thao tác của tư duy, các thao tác này cũng thường gặp trong hoạt động nghị luận. Tuy nhiên, cần phân biệt sự khác nhau giữa thao tác quy nạp và thao tác tổng hợp; thao tác diễn dịch và thao tác phân tích.

- Mỗi thao tác đều có ưu thế và những hạn chế riêng. Người sử dụng thao tác cần nắm vững các ưu thế và hạn chế để có thể vận dụng thích hợp, đảm bảo hoạt động đạt được hiệu quả cao.

II. Một số thao tác nghị luận cụ thể

1. Các thao tác phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp.

a). Điền chính xác định nghĩa về các thao tác phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp phù hợp với các câu đã cho (SGK), thứ tự đúng là tổng hợp, phân tích, quy nạp, diễn dịch.

b). Trong lời tựa Trích diễm thi tập, Hoàng Đức Lương nhận định "Thơ văn không lưu truyền hết ở đời là vì nhiều lí do”. Tiếp đó, ông lần lượt trình bày bốn lí do. Anh (chị) thấy tác giả sử dụng thao tác phân tích hay diễn dịch? Sử dụng thao tác đó có tác dụng gì?

- Tác giả đã dùng thao tác phân tích vì tác giả đã chia vấn đề cần bàn luận thành bốn bộ phận để xem xét chứ không phải từ một tiền đề chung có tính phổ biến để diễn giải những sự vật, hiện tượng riêng.

- Việc sử dụng thao tác phân tích của tác giả có tác dụng chia một nhận định thành các mặt, từ đó làm rõ nguyên nhân khiến thơ ca không lưu truyền hết ở đời.

c. Cũng trong lời tựa Trích diễm thi tập, sau khi nêu bốn lí do hạn chế, Hoàng Đức Lương rút ra kết luận: Vậy thì các bản thảo thơ văn cũ mỏng manh kia còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành? Kết luận này là tác giả sử dụng thao tác tổng hợp hay quy nạp? Thao tác đó giúp gì cho quá trình lập luận trở nên có sức thuyết phục?

- Dẫn chứng rút ra từ bài tựa Trích diễm thi tập, tác giả sử dụng thao tác tổng hợp nhằm thâu tóm những bộ phận vào một kết luận chung khiến cho kết luận ấy bao gồm được toàn bộ sức nặng của các luận điểm riêng trước đó.

- Xem đoạn trích (SGK) có sử dụng thao tác tổng hợp không? Vì sao?

+ Dẫn chứng rút ra từ bài Hịch tướng sĩ là tác giả sử dụng thao tác quy nạp.

+ Những dẫn chứng khác nhau được sử dụng làm cho kết luận "Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có?” càng trở nên đáng tin cậy, có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người nghe (người đọc) cả về lí trí lẫn tình cảm.

d). Những nhận định nêu dưới đây đúng hay không? Vì sao?

- Thao tác diễn dịch có khả năng rút ra chân lí mới từ các chân lí đã biết.

- Thao tác quy nạp luôn luôn đưa lại những kết luận chắc chắn và xác thực.

- Tổng hợp không chỉ là thao tác đối lập với thao tác phân tích mà còn là sự tiếp tục và hoàn thành của quá trình phân tích.

+ Nhận định thứ nhất đúng với điều kiện tiền đề để diễn dịch phải chân thực và cách suy luận khi diễn dịch phải chính xác. Khi đó, kết luận rút ra sẽ mang tính tất yếu, không thể bác bỏ, cũng không cần phải chứng minh.

+ Nhận định thứ hai chưa chính xác. Chừng nào sự quy nạp còn chưa đầy đủ (chưa xét toàn bộ các trường hợp riêng) thì chừng đó, mối liên h giữa tiền đề và kết luận còn chưa chắc chắn, tính xác thực của kết luận còn phải chờ thực tiễn chứng minh.

+ Nhận định thứ ba đúng vì phải có quy trình tổng hợp sau khi phân tích thì công việc xem xét, tìm hiểu một sự vật, hiện tượng mới thực sự hoàn thành.

2. Thao tác so sánh.

a). Trong bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, sau khi dẫn ra những tấm gương của sự cống hiến, hi sinh cho kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết “Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”.

Tác giả dùng thao tác nào? Câu văn nhấn mạnh sự khác nhau hay giống nhau?

- Tác giả sử dụng thao tác so sánh. So sánh tinh thần yêu nước của nhân dân ta thời xưa với tinh thần yêu nước của đồng bào ta ngày nay.

- Câu văn được viết nhằm nhấn mạnh đến sự giống nhau.

b). Đoạn Bàn về việc so sánh đức nhà Lý và nhà Lê trong Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu (SGK) có cùng mục đích nhấn mạnh sự khác nhau (hoặc giống nhau) như đoạn trên không? Từ đó suy ra thao tác so sánh gồm mấy loại chính?

- Đoạn văn của Lê Văn Hưu sử dụng thao tác so sánh nhằm nhấn mạnh đến sự khác nhau, khác nhau giữa Lý Thái Tổ và Lê Đại Hành trong hai việc “dẹp gian bên trong, đánh giặc bên ngoài để làm mạnh nước Việt” và “ân uy rõ rệt, lòng người vui vẻ suy tôn, làm cho vận nước lâu dài, để phúc lại cho con cháu”.

- Thao tác so sánh gồm hai loại chính, so sánh nhằm nhận ra sự giống nhau và so sánh nhằm nhận ra sự khác nhau.

c). Có người hoài nghi tác dụng của so sánh vì cho rằng “mọi so sánh đều khập khiễng”. Anh (chị) có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?

- Ý kiến cho rằng “mọi so sánh đều khập khiễng” cũng có lí vì trong so sánh đòi hỏi đối tượng so sánh phải hoàn toàn tương đồng hoặc tương phản. Nhưng không vì thế mà hoài nghi tác dụng của so sánh, vì so sánh sẽ giúp nhận thức về đối tượng rõ nét và sâu sắc hơn.

 - Trong bốn câu hỏi ở SGK, câu trả lời thứ hai chưa đúng “Những đối tượng được so sánh phải hoàn toàn tương đồng hoặc tương phản nhau”. Các câu còn lại đều đúng. Muốn so sánh thì đối tượng phải có mối liên quan với nhau về một mặt (một phương diện) nào đó. So sánh phải dựa trên những tiêu chí cụ thể, rõ ràng và có ý nghĩa quan trọng đối với sự nhận thức bản chất của vấn đề (sự vật, hiện tượng). Những kết luận rút ra từ so sánh phải chân thực, mới mẻ, bổ ích, giúp cho việc nhận thức vấn đề (sự vật, hiện tượng) được sáng tỏ và sâu sắc hơn.