Bài 9. Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh

Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thế giới lâm vào tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường Mĩ và Liên Xô, cuộc chiến này đã chi phối các quan hệ quốc tế trong bốn thập kỷ.

I. Mâu thuẫn Đông – Tây và sự khởi đầu của chiến tranh lạnh

Từng là liên minh chống phát xít nhưng sau chiến tranh, Mĩ và Liên Xô đối đầu nhau và đi tới tình trạng chiến tranh lạnh vì những nguyên nhân sau:

+ Do sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai nước; trong khi Liên Xô chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của CNXH và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới thì Mĩ lại chống phá Liên Xô và các nước XHCN, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm mưu đồ bá chủ thế giới.

Mĩ là nước giàu mạnh, lại nắm độc quyền vũ khí nguyên tử nên tự cho quyền lãnh đạo thế giới; khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô là thông điệp ngày 12/3/1947 của Mĩ khẳng định: sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với Mĩ, đề nghị viện trợ 400 triệu USD cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì.

+ Sự ra đời của Kế hoạch Mácsan (tháng 6/1947).

Mĩ viện trợ khoảng 17 tỉ USD cho các nước Tây Âu phục hồi kinh tế nhằm tập hợp các nước này vào liên minh quân sự chống liên Xô và các nước Đông Âu.

Tháng 1/1949, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế để hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, sau đó còn thành lập Tổ chức Hiệp ước Vácsava (liên minh chính trị - quân sự) mang tính chất phòng thủ của các nước XHCN tại châu Âu.

Sựa ra đời vủa NATO và Tổ chức Hiệp ước Vácsava đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe chiến tranh lạnh.

II. Sự đối đầu Đông – Tây và các cuộc chiến tranh cục bộ

Chiến tranh lạnh diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực như: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa – tư tưởng… trong thời gian chiến tranh lạnh, thế giới luôn căng thẳng vì những cuộc chiến tranh cục bộ ở những khu vực Đông Nam Á, Triều Tiên, Trung Đông.

1. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương (1945 - 1954)

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Pháp quay lại xâm lược ba nước Đông Dương, cuộc chiến tranh bùng nổ từ tháng 9/1945 tại Sài Gòn và đến cuối tháng 12/1946, lan rộng ra toàn Đông Dương.

Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (tháng 10/1949), Việt Nam mới được Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN giúp đỡ, ủng hộ. Từ sau năm 1950, Mĩ can thiệp sâu hơn vào chiến tranh Đông Dương khiến cuộc chiến bị sự tác động của hai phe.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ (tháng 7/1954) đã công nhận độc lập, chủ quyền của ba nước Đông Dương nhưng Việt Nam bị chia cắt thành hai miền, lấy ranh giới là vĩ tuyến 17, tuy nhiên đại biểu Mĩ tuyên bố không chịu sự ràng buộc của Hiệp định trên.

2. Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953)

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Triều Tiên được công nhận là quốc gia có chủ quyền nhưng tạm thời quân đội Liên Xô đóng ở phía Bắc và quân đội Mĩ đóng phía Nam, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới.

Năm 1948, hai chính quyền được thành lập là Đại Hàn Dân quốc (tháng 8/1948) và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (tháng 9/1948). Sau đó quân đội Mĩ và Liên Xô đều rút khỏi Triều Tiên nhưng vẫn bảo trợ cho hai nước với chế độ chính trị khác nhau.

Sau 3 năm chiến tranh giữa miền Bắc (Trung Quốc chi viện) và miền Nam (Mĩ giúp sức); ngày 27/7/1953, Hiệp định đình chiến được kí, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới quân sự. Chiến tranh Triều Tiên là sự đụng đầu trực tiếp giữa hai phe chiến tranh lạnh.

3. Cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)

Sau Hiệp định Giơnevơ, Mĩ thay thế Pháp, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm với âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của Mĩ.

Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất giữa hai phe, tháng 1/1973, Hiệp định Pari được kí, Mĩ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và rút quân, không dính líu quân sự hoặc can thiệp chính trị.

Nhân dân ba nước Đông Dương cùng tiến hành cuộc chiến chống Mĩ và đến năm 1975 đã giành thắng lợi hoàn toàn.

III. Xu thế hóa hoãn Đông – Tây và chiến tranh lạnh chấm dứt

Từ đầu thập kỉ 70, dù còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng xu hướng hoà hoãn đã xuất hiện với những cuộc thương lượng Xô – Mĩ.

Ngày 9/11/1972, hai nước Đức đã kí Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức tại Bon. Cùng năm, Liên Xô và Mĩ kí Hiệp ước về hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM) và Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (SALT - 1).

Tháng 8/1975, 33 nước châu Âu và Mĩ, Canada kí kết Định ước Henxinki, khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia (bình đẳng, chủ quyền, sự bền vững của đường biên giới…).

Từ đầu thập kỷ 17, Liên Xô và Mĩ tiến hành nhiều cuộc gặp cấp cao thỏa thuận về thủ tiêu tên lửa tầm trung ở châu Âu, cắt giảm vũ khí chiến lược và hạn chế chạy đua vũ trang giữa hai nước.

Tháng 12/1989, Mĩ và Liên Xô chính thức tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh.

IV. Thế giới sau chiến tranh lạnh

Đầu thập kỷ 90, chế độ XHCN tan rã ở các nước Đông Âu và Liên Xô, từ sau năm 1991, tình hình thế giới phát triển theo các xu thế sau:

+ Trật tự thế giới hai cực sụp đổ và hình thành xu hướng đa ucực như Mĩ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc.

+ Sau chiến tranh lạnh, các nước tập trung phát triển kinh tế để xây dựng sức mạnh quốc gia.

+ Sự tan rã của Liên Xô tạo cho Mĩ lợi thế tạm thời.

+ Nhiều cuộc nội chiến, xung đột kéo dài ở bán đảo Bancăng, châu Phi, Trung Á…các quốc gia đứng trước thách thức của chủ nghĩa khủng bố.