Bài 8: Thực hành Tiếng Việt
1. Tìm và xác định chức năng của số từ
trong các câu sau:
a. Vẽ một vòng tròn nhỏ giữa sân, ở
giữa đặt một cây cờ hoặc chiếc khăn, cành lá... tượng trưng cho cờ.
(Trò chơi cướp cờ, Nguyễn
Thị Thanh Thủy)
b. Sau đó, cờ lại được đặt vào vị trí
quy định để trọng tài tiếp tục gọi hai người chơi tiếp theo của hai đội tham
gia.
(Trò chơi cướp cờ, Nguyễn
Thị Thanh Thủy)
c. Sau hai ngày thì đặt ngửa củ hoa
lên, đưa vào dụng cụ dưỡng như bình thủy tinh, bình nhựa, bát đất nung.
(Cách gọt củ hoa thủy tiên, Giang
Nam)
d. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm
cháy và sáng rực lên.
(Cô bé bán diêm, An-đéc-xen)
đ. Mỗi khi dỡ những chiếc bánh khúc
trong chõ ra, bà nội lại xếp dăm cái lên đĩa để thắp hương trên bàn thờ.
(Tôi khóc những cánh đồng rau khúc, Nguyễn
Quang Thiều).
-
Trong câu (a): một vòng tròn, một cây cờ
- biểu thị số lượng sự vật, đứng trước danh từ.
-
Trong câu (b): hai người chơi, hai đội
- biểu thị số lượng sự vật, đứng trước danh từ.
-
Trong câu (c): hai ngày - biểu thị số
lượng sự vật, đứng trước danh từ.
-
Trong câu (d): que diêm thứ hai -
biểu thị số thứ tự của danh từ, đứng sau danh từ.
-
Trong câu (đ): dăm cái - số từ chỉ số
lượng của sự vật, đứng trước danh từ.
2. Xác định ý nghĩa của số từ được in
đậm trong các ví dụ sau:
a. Tục truyền, đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và
có tiếng là phúc đức.
(Thánh Gióng)
b. Con sắt đập ngã ông Đùng
Đắp mười chiếc chiếu không cùng bàn tay.
(Ca dao)
c. Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng tay. Thận không ngờ thanh
sắt vừa rồi lại chui vào lưới mình. Chàng lại ném xuống sông. Lần thứ ba, vẫn thanh sắt ấy mắc vào lưới.
(Sự tích Hồ Gươm)
d. Khoảng sau một giờ rưỡi, những nồi cơm lần lượt được đem trình trước cửa đình.
(Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân, Minh
Nhương).
-
Trong câu (a): thứ sáu - đứng sau
danh từ chỉ số thứ tự; hai: đứng
trước danh từ chỉ số lượng.
-
Trong câu (b): mười - đứng trước danh
từ chỉ số lượng.
-
Trong câu (c): lần thứ hai, lần thứ ba
- chỉ số thứ tự.
- Trong câu (d): một giờ rưỡi - chỉ số
lượng, đứng trước danh từ.
3. Đọc lại đoạn văn đã viết ở câu hỏi
6 (bài học Trò chơi cướp cờ), trang 47, xác định số từ có trong đoạn văn (nếu
chưa có thì hãy bổ sung ít nhất một số từ). Sau đó, chỉ ra chức năng của
(những) số từ đó.
4. Chỉ ra nghĩa thông thường và nghĩa
theo dụng ý của tác giả đối với các từ ngữ được đặt trong dấu ngoặc kép sau:
a. "Chuẩn vị" thủy tiên
xưa, lá phải xoăn, thấp, những bông hoa cao lêu đêu cũng là hỏng.
(Cách gọt củ hoa thủy tiên, Giang
Nam)
b. Theo nghệ nhân Nguyễn Phú Cường,
đấy là lúc chiếc lá "ngoan" nhất.
(Cách gọt củ hoa thủy tiên, Giang
Nam)
-
Trong câu (a): chuẩn vị theo nghĩa
thông thường là đúng vị, hương vị gốc. Nghĩa theo dụng ý của tác giả trong văn
bản là tiêu chuẩn vẻ đẹp của hoa thủy tiên.
-
Trong câu (b): ngoan theo nghĩa thông
thường là nghe lời, dễ bảo. Nghĩa theo dụng ý của tác giả trong văn bản là lúc
chiếc lá dễ uốn và tạo hình nhất.
5. Trong tiếng Việt, cho, biếu, tặng đều có nghĩa giống nhau
là chuyển vật mình đang sở hữu cho người khác mà không đổi lấy gì cả. Trong câu
văn "Rồi bà tôi dỡ dăm chiếc bánh khúc nóng hổi cho vào một chiếc đĩa để chị
tôi mang vào cuối làng biếu bà ngoại tôi". (Tôi khóc những cánh đồng rau
khúc, Nguyễn Quang Thiều),
vì sao tác giả lại dùng từ biếu mà không dùng từ cho hoặc tặng?
Trong
câu văn trên, hành động mang bánh khúc cho bà ngoại là người cao tuổi, bậc trên
nên sử dụng từ biếu sẽ mang tính trang trọng, thể hiện mối quan hệ gần gũi.
6. Xác định và chỉ ra tác dụng của
biện pháp tu từ được sử dụng trong những câu sau:
a. Tôi nâng chiếc bánh khúc lên như
nâng một báu vật.
b. Nhưng có lẽ là tôi không thể nào
bỏ đi cho dù là một hạt xôi nếp đẹp như một hạt ngọc và ngậy thơm làm vỏ dính
trên chiếc bánh được.
(Tôi khóc những cánh đồng rau khúc, Nguyễn
Quang Thiều)
-
Trong câu (a) sử dụng biện pháp tu từ so sánh có tác dụng mô tả chiếc bánh thêm
sinh động và hành động trân trọng bánh khúc, món ăn gắn với tuổi thơ.
-
Trong câu (b) sử dụng biện pháp tu từ so sánh có tác dụng gợi tả vẻ đẹp của hạt
xôi nếp và biểu hiện tình cảm của nhân vật tôi đối với chiếc bánh.
7. Xác định phép liên kết được sử
dụng trong đoạn trích sau:
(1) Thường thì vào cuối tháng Mười
Một âm lịch, rau khúc đã bắt đầu nở lác đác trên đồng. (2) Nhưng phải sang
tháng Giêng, tháng Hai rau khúc mới nở rộ. (3) Đó là khoảng thời gian những làn
mưa xuân ấm áp thường trở về trên cánh đồng lúc gần sáng. (4) Hồi còn nhỏ,
trong những đêm gần sáng như thế, không hiểu lí do gì mà tôi thường thức giấc.
(Tôi khóc những cánh đồng rau khúc, Nguyễn
Quang Thiều)
-
Phép lặp: Từ “rau khúc” (1), (2).
-
Phép thế: “Tháng Giêng, Tháng Hai” (2); “đó” (3); lúc gần sáng (3); những
đêm gần sáng như thế (4).
-
Phép nối: từ “Nhưng” (2).
- Phép liên tưởng: tháng Mười Một (1); tháng Giêng, tháng Hai (2).