Bài 27. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953 - 1954)
I. Kế hoạch Na-va của Pháp – Mĩ
- Ngày 7/5/1953, được sự giúp đỡ của Mĩ, Na-va vạch kế hoạch quân sự hi vọng kết thúc chiến tranh ở Đông Dương trong vòng 18 tháng.
- Kế hoạch Na-va tiến hành theo hai bước:
+ Bước một: Trong thu –đông 1953 và xuân 1954 giữ thế phòng ngự trên chiến trường miền Bắc, bình định miền Trung và miền Nam.
+ Bước hai: Từ thu – đông 1954, chuyển lực lượng ra miền Bắc, giành thắng lợi quân sự, kết thúc chiến tranh.
+ Pháp tăng thêm 44 tiểu đoàn ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
II. Cuộc tiến công chiến lược đông – xuân 1953 – 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954
1. Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953 - 1954
- Tháng 9/1953, Đảng đề ra kế hoạch tác chiến Đông – Xuân 1953 – 1954 với quyết tâm giữ vững quyền chủ động đánh cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch.
Phương hướng chiến lược của ta mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng buộc địch phải phân tán lực lượng ở những điểm xung yếu. Phương châm là đánh chắc, thắng chắc.
- Ta mở một loạt chiến dịch ở hầu khắp các chiến trường Đông Dương, buộc địch phải phân tán lực lượng ra 5 nơi gồm: Đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ, Xê-nô (Trung Lào), Luông Pha-bang (Thượng Lào). Plâyku (Tây Nguyên).
- Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 của ta đã làm phá sản bước đầu kế hoạch Na-va của Pháp - Mĩ, buộc quân chủ lực của chúng phải bị động phân tán lực lượng và giam chân ở miền rừng núi.
2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)
- Âm mưu của Pháp:
+ Xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương.
+ Lực lượng địch gồm 16200 binh lính và phương tiện chiến tranh, được bố trí thành một hệ thống phòng ngự gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu (phân khu Trung tâm, phân khu Bắc, phân khu Nam). Pháp và Mĩ cho rằng Điện Biên Phủ là một “pháo đài không thể công phá”.
- Tháng 12/1953, ta mở chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 13/3/1954 đến hết ngày 7/5/1954 và chia làm 3 đợt:
+ Đợt 1: Ta tấn công tiêu diệt cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc.
+ Đợt 2: Tiến công tiêu diệt các căn cứ đông phân khu Trung tâm.
+ Đợt 3: Đồng loạt tiêu diệt các căn cứ còn lại.
- Ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, hạ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, cơ sở vật chất, kĩ thuật.
III. Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương (1954)
- Đông Xuân 1953 – 1954, đồng thời với mặt trận quân sự, ta còn tiến công địch trên mặt trận ngoại giao.
- Ngày 8/5/1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc và bắt đầu thảo luận về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương.
- Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết.
- Nội dung cơ bản của Hiệp định:
+ Các nước tham dự Hội nghị cam kết công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương.
+ Hai bên tham gia chiến cùng ngừng bắn, lập lại hoà bình trên toàn Đông Dương.
+ Hai bên tham chiến thực hiện di chuyển, tập kết quân đội ở hai vùng, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời.
+ Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước sẽ tổ chức vào tháng 7/1956 dưới sự kiểm soát của một ủy ban quốc tế.
- Hiệp định Giơ-ne-vơ đã chấm dứt chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương.
- Là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương.
- Hiệp định buộc Pháp phải rút hết quân đội về nước, Mĩ thất bại trong âm mưu mở rộng và quốc tế hóa chiến tranh xâm lược Đông Dương. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
IV. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)
1. Ý nghĩa lịch sử
- Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ trên đất nước ta.
- Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng miền Nam.
- Giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược và âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc.
- Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, trước hết là các nước ở châu Á, châu Phi và Mĩ La-tinh.
2. Nguyên nhân thắng lợi
- Nhờ sự lãnh đạo sáng suối của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối đúng đắn, sáng tạo.
- Được tiến hành trong điều kiện có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, có mặt trận dân tộc thống nhất, có lực lượng vũ trang, có hậu phương vững chắc.
- Có tinh thần đoàn kết giữa ba nước Đông Dương và sự đồng tình tình giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân khác, của loài người tiến bộ.