Bài 26. Kim loại kiềm thổ và hợp chất quan trọng của kim loại kiềm thổ
A. Kim loại kiềm thổ
I. Vị trí trong bảng tuần hoàn, cấu hình electron
nguyên tử
Kim loại kiềm thổ
thuộc nhóm IIA của bảng tuần hoàn, gồm các nguyên tố beri (Be), magie (Mg),
canxi (Ca), stronti (Sr), bari (Ba) và rađi (Ra).
Nguyên tử của các
kim loại kiềm thổ đều có cấu hình electron lớp ngoài cùng là ns2 (n
là số thứ tự của lớp).
II. Tính chất vật lí
Các kim loại kiềm
thổ có màu trắng bạc, có thể dát mỏng.
Do các kim loại kiềm
thổ có kiểu mạng tinh thể không giống nhau nên nhiệt độ nóng chảy, nhiệt độ sôi
và khối lượng riêng của các kim loại kiềm thổ không biến đổi theo một quy luật
nhất định như các kim loại kiềm.
III. Tính chất hóa học
Kim loại kiềm thổ
có tính khử mạnh, tăng dần từ beri đến bari.
$M \to {M^{2 + }}
+ 2e$
Trong hợp chất,
các kim loại kiềm thổ có số oxi hóa +2.
1. Tác dụng với phi kim
Kim loại kiềm thổ
khử các nguyên tử phi kim thành ion âm.
2. Tác dụng với dung dịch axit
- Với axit HCl, H2SO4
loãng
Kim loại kiềm thổ
khử mạnh ion H+ trong các dung dịch HCl, H2SO4
loãng thành khí H2.
- Với axit HNO3,
H2SO4 đặc
Kim loại kiềm thổ có thể khử $\mathop N\limits^{ + 5} $ trong HNO3 loãng xuống $\mathop N\limits^{ -3} $, $\mathop S\limits^{ + 6} $ trong H2SO4 đặc xuống $\mathop S\limits^{ -2} $:
$\begin{gathered}4\mathop {Mg}\limits^0 + 10H\mathop N\limits^{ + 5} {O_3}\ (loãng) \to 4\mathop {\mathop {Mg}\limits^{ + 2} {{(N{O_3})}_2}}\limits^{} + \mathop N\limits^{ - 3} {H_4}N{O_3} + 3{H_2}O \hfill \\
4\mathop {Mg}\limits^0 + 5{H_2}\mathop S\limits^{ + 6} {O_4}\ (đặc) \to 4\mathop {\mathop {Mg}\limits^{ + 2} S{O_4}}\limits^{} + \mathop {{H_2}\mathop S\limits^{ - 2} N}\limits^{} + 4{H_2}O \hfill \\
\end{gathered} $
3. Tác dụng với nước
Ở nhiệt độ thường,
Be không khử được nước, Mg khử chậm. Các kim loại còn lại khử mạnh nước giải
phóng khí hiđro.
B. Một số hợp chất quan trọng của canxi
I. Canxi hiđroxit
Canxi hiđroxit
(Ca(OH)2) còn gọi là vôi tôi, là chất rắn màu trắng, ít tan trong nước.
Nước vôi trong là dung dịch Ca(OH)2.
Ca(OH)2
hấp thụ dễ dàng khí CO2:
$Ca{(OH)_2} +
C{O_2} \to CaC{O_3} \downarrow + {H_2}O$
Phản ứng trên thường
được dùng để nhận biết khí CO2.
Ca(OH)2
là một bazơ mạnh, lại rẻ tiền nên được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành công
nghiệp: sản xuất amoniac (NH3), clorua vôi (CaOCl2), vật
liệu xây dựng,...
II. Canxi cacbonat
- Canxi cacbonat
(CaCO3) là chất rắn, màu trắng, không tan trong nước, bị phân hủy ở
nhiệt độ khoảng 1000oC.
Trong tự nhiên,
canxi cacbonat tồn tại ở dạng đá vôi, đá hoa, đá phấn và là thành phần chính của
vỏ và mai các loài ốc, sò, hến, mực,...
Ở nhiệt độ thường,
CaCO3 tan dần trong nước có hòa tan khí CO2 tạo ra canxi
hiđrocacbonat (Ca(HCO3)2), chất này chỉ tồn tại trong
dung dịch.
Khi đun nóng, hoặc
áp suất CO2 giảm đi thì Ca(HCO3)2 bị phân hủy
tạo ra CaCO3 kết tủa.
Phản ứng trên giải
thích sự tạo thành thạch nhũ trong các hang đá vôi, cặn trong ấm nước,...
- Đá vôi dùng làm
vật liệu xây dựng, sản xuất vôi, xi măng, thủy tinh,... Đá hoa dùng trong các
công trình mĩ thuật (tạc tượng, trang trí,...). Đá phấn dễ nghiền thành bột mịn
làm phụ gia của thuốc đánh răng,...
III. Canxi sunfat
Trong tự nhiên,
canxi sunfat (CaSO4) tồn tại dưới dạng muối ngậm nước CaSO4.2H2O
gọi là thạch cao sống.
Khi đun nóng đến
160oC, thạch cao sống mất một phần nước biến thành thạch cao nung là
chất rắn màu trắng, dễ nghiền thành bột mịn. Khi nhào bột này với nước tạo
thành một loại bột nhão có khả năng đông cứng nhanh.
Thạch cao khan là
CaSO4 được điều chế bằng cách nung thạch cao sống ở nhiệt độ 350oC.
Khi nghiền
clanhke, người ta trộn thêm 5 - 10% thạch cao để điều chỉnh tốc độ đông cứng của
xi măng. Thạch cao nung còn được dùng để nặn tượng, đúc khuôn và bó bột khi gãy
xương.
C. Nước cứng
I. Khái niệm
Nước tự nhiên thường
chứa nhiều muối của các kim loại như canxi, magie, sắt,... Nước chứa nhiều ion
Ca2+ và Mg2+ được gọi là nước cứng.
Nước chứa ít hoặc
không chứa các ion Ca2+ và Mg2+ được gọi là nước mềm.
Người ta phân biệt
nước cứng có tính cứng tạm thời, vĩnh cửu và toàn phần.
- Tính cứng tạm thời
là tính cứng gây nên bởi các muối Ca(HCO3)2 và Mg(HCO3)2.
Khi đun sôi nước,
các muối Ca(HCO3)2 và Mg(HCO3)2 bị
phân hủy tạo ra kết tủa CaCO3 và MgCO3 nên sẽ làm mất
tính cứng.
- Tính cứng vĩnh cửu
là tính cứng gây nên bởi các muối sunfat, clorua của canxi và magie.
Khi đun sôi, các
muối này không bị phân hủy nên tính cứng vĩnh cửu không mất đi.
- Tính cứng toàn
phần gồm cả tính cứng tạm thời và tính cứng vĩnh cửu.
II. Tác hại
- Đun nước cứng
lâu ngày trong nồi hơi, nồi sẽ bị phủ một lớp cặn. Lớp cặn dày 1 mm làm tốn
thêm 5% nhiên liệu, thậm chí có thể gây nổ.
- Các ống dẫn nước
cứng lâu ngày bị đóng cặn, làm giảm lưu lượng của nước.
- Quần áo giặt bằng
nước cứng thì xà phòng không ra bọt, tốn xà phòng và làm quần áo chóng hư hỏng
do những kết tủa khó tan bám vào quần áo.
- Pha trà bằng nước
cứng sẽ làm giảm hương vị của trà. Nấu ăn bằng nước cứng sẽ làm cho thực phẩm
lâu chín và giảm mùi vị.
III. Cách làm mềm nuớc cứng
Nguyên tắc làm mềm
nước cứng là làm giảm nồng độ các ion Ca2+, Mg2+ trong nước
cứng bằng các phương pháp sau:
1. Phương pháp kết tủa
- Khi đun sôi nước,
các muối Ca(HCO3)2 và Mg(HCO3)2 bị
phân hủy tạo ra muối cacbonat không tan. Loại bỏ kết tủa ta được nước mềm.
- Dùng Ca(OH)2
với một lượng vừa đủ để trung hoà muối axit, tạo ra kết tủa làm mất tính
cứng tạm thời.
- Dùng Na2CO3
(hoặc Na3PO4) để làm mất tính cứng tạm thời và tính cứng
vĩnh cửu.
Trên thực tế, người
ta dùng đồng thời một số hoá chất, thí dụ Ca(OH)2 và Na2CO3.
2. Phương pháp trao đổi ion
Những vật liệu vô
cơ hoặc hữu cơ có khả năng trao đổi một số ion có trong thành phần cấu tạo của
chúng với các ion có trong dung dịch được gọi là vật liệu trao đổi ion.
Trong xử lí nước cứng,
người ta thường dùng các vật liệu polime có khả năng trao đổi cation, gọi chung
là nhựa cationit.
Các zeolit là vật
liệu trao đổi ion vô cơ cũng thường được dùng để làm mềm nước.
Phương pháp trao đổi
ion có thể làm giảm cả độ cứng vĩnh cửu lẫn độ cứng tạm thời của nước.
IV. Nhận biết ion Ca2+, Mg2+
trong dung dịch
Để nhận biết ion Ca2+, Mg2+ trong dung dịch, ta dùng dung dịch muối chứa CO3 sẽ tạo ra kết tủa CaCO3 hoặc MgCO3. Sục khí CO2 dư vào dung dịch, nếu kết tủa tan chứng tỏ sự có mặt của Ca2+ hoặc Mg2+ trong dung dịch ban đầu.