Bài 25. Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp (1946-1950)

I. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ (19/12/1946)

1. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ

- Sau Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, Pháp tìm cách phá hoại nhằm xâm lược nước ta một lần nữa.

+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, Pháp tập trung tiến công các cơ sở cách mạng, vùng tự do, căn cứ địa của ta.

+ Ngày 20/11/1946, Pháp đánh chiếm một số vị trí quan trọng ở thành phố Hải Phòng, nổ súng vào quân ta ở thị xã Lạng Sơn.

- Tại Hà Nội, thực dân Pháp liên tiếp gây xung đột vũ trang.

- Ngày 18/12/ 1946, Pháp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiếm soát thủ đô cho chúng.

- Ban thường vụ Trung Ương Đảng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến.

- Tối 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

- Hưởng ứng lời kêu gọi, đêm 19/12/1946, tiếng súng kháng chiến bắt đầu.

2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của ta

- Tháng 9/1947, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, nêu những nội dung cơ bản đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm luợc.

- Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến tranh nhân dân - toàn dân toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

II. Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16

- Quân dân ta chủ động tiến công quân Pháp, bao vây, giam chân chúng ở thủ đô, các thành phố và thị xã, tạo thế trận cho cuộc chiến đấu lâu dài.

- Cuộc chiến đấu quyết liệt đã diễn ra ở Hà Nội.

- Ngày 17/2/1946, Trung đoàn thủ đô rút quân khỏi vòng vây của địch ra căn cứ an toàn.

Trong gần 2 tháng (từ ngày 19/12 – 17/2/1947), quân dân ta đã giam địch ở các thành phố để hậu phương di chuyển kho tàng, công xưởng về chiến khu, bảo vệ an toàn cho Trung ương Đảng, Chính phủ trở lại căn cứ địa.

- Tại các thành phố Nam Định, Huế, Đà Nẵng… quân dân ta chủ động tiến công, bao vây, giam cầm quân Pháp trong hai, ba tháng. Sau đó chủ động rút lui về căn cứ.

III. Tích cực chuẩn bị cho cuộc chiến lâu dài

- Cuối năm 1946, công việc chuẩn bị cho kháng chiến được đẩy mạnh, đồng thời với việc di chuyển máy móc, thiết bị, hàng hóa, lương thực, thực phẩm đến nơi an toàn, ta tiến hành “tiêu thổ kháng chiến”; vận động nhân dân tản cư.

- Chính phủ chia nước ta thành 12 khu hành chính và quân sự. Mọi người dân từ 18 – 45 tuổi đều tham gia dân quân, vũ khí vừa tự tạo, vừa lấy của địch để tự trang bị.

- Về kinh tế, Chính phủ ban hành các chính sách để duy trì và phát triển sản xuất.

- Về giáo dục, phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển.

IV. Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947

1. Thực dân Pháp tấn công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc

- Để thực hiện âm mưu tập hợp những phần tử phản động để hành lập chính phủ bù nhìn trung ương, Pháp lập ra Mặt trận quốc gia thống nhất.

- Pháp huy động 12.000 quân tinh nhuệ và hầu hết máy bay ở Đông Dương, chia thành ba cánh, mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc để tiêu diệt quân chủ lực của ta, phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, khóa chặt biên giới Việt - Trung.

+ Ngày 7/10/1947, Pháp cho quân nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn.

+ Cùng ngày, đồng thời cho hai cánh quân bao vây phía đông và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc.

+ Ngày 9/10/1947, một binh đoàn ngược sông Lô, sông Gâm lên bao vây phía tây căn cứ.

2. Quân ta chiến đấu bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc

- Quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt sinh lực địch, bẻ gãy từng gọng kìm của chúng.

- Tại Bắc Kạn, ta chủ động phản công và tiến công bao vây, chia cắt, cô lập, tập kích nơi địch chiếm đóng, vừa chiến đấu vừa di chuyển các cơ quan Trung ương, Đảng, Chính phủ, công xưởng, kho tàng... đến nơi an toàn.

+ Ở hướng Đông, quân phục kích đánh địch trên Đường số 4. tiêu biểu là trận phục kích ở đèo Bông Lau (30/10/1947).

+ Ở hướng Tây, quân ta phục kích nhiều trận trên sông Lô như trận ở Đoan Hùng (tháng 10/1947);

- Phối hợp với cuộc chiến đấu ở Việt Bắc, quân dân trên khắp chiến trường hoạt động mạnh, góp phần kiềm chế quân địch.

- Sau 75 ngày đêm chiến đấu, Pháp đã rút khỏi Việt Bắc. Cơ quan kháng chiến được bảo toàn.

V. Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện

- Sau thất bại ở Việt Bắc, Pháp thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" nhằm chống lại cuộc kháng chiến lâu dài, toàn diện của ta.

- Về phía ta, thực hiện phương châm “đánh lâu dài", đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.

- Về quân sự: Ta chủ trương động viên nhân dân thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển chiến tranh du kích.

- Về chính trị, ngoại giao: Năm 1948, tại Nam Bộ tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp.

- Tháng 6/1949, Việt Minh và Hội Liên Việt quyết định thống nhất hai tổ chức từ cơ sở đến trung ương.

- Ngày 14/1/1950, Chủ tích Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng quan hệ với những nước tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, nhiều nước đã chính thức đặt quan hệ ngoại giao với ta.

- Về kinh tế: Ta chủ trương phá hoại kinh tế địch. Đẩy mạnh xây dựng và bảo vệ kinh tế dân chủ nhân dân.

- Văn hóa giáo dục:  Tháng 7/1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông. Hướng dẫn giáo dục phục vụ nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc.