Bài 23. Kinh tế, văn hoá thế kỉ XVI - XVIII

I. KINH TẾ

1. Nông nghiệp.

- Ở Đàng Ngoài, khi chưa diễn ra chiến tranh Nam – Bắc triều, thời Mạc Đăng Doanh được mùa, nhà nhà no đủ. Tiếp sau đó, những cuộc xung đột kéo dài giữa các tập đoàn phong kiến làm cho sản xuất nông nghiệp bị phá hoại nghiêm trọng. Chính quyền Lê – Trịnh ít quan tâm đến thủy lợi và tổ chức khai hoang.

- Ruộng đất bỏ hoang. Mất mùa, đói kém xảy ra dồn dập. Nghiêm trọng nhất là vùng Sơn Nam (Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hưng Yên...) và vùng Thanh – Nghệ. Nông dân phải bỏ làng phiêu bạt đi nơi khác.

- Ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn ra sức khai thác vùng Thuận – Quảng để củng cố cơ sở cát cứ. Chính quyền tổ chức di dân khai hoang, cấp nông cụ, lương ăn, lập thành làng ấp.

+ Riêng ở Thuận Hóa năm 1711, chúa Nguyễn chiêu tập dân lưu vong, tha tô thuế binh dịch 3 năm, khuyến khích họ trở về quê quán làm ăn.

- Tính đến năm 1776, số dân đinh tăng lên 126857 suất, số ruộng đất tăng lên 265507 mẫu.

- Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí phía nam, đặt phủ Gia Định. Tiếp đó, vùng đất Mĩ Tho, Hà Tiên cũng được sáp nhập vào phủ này. Đến giữa thế kỉ XVIII, vùng đồng bằng sông Cửu Long có thêm nhiều thôn xã mới. Phủ Gia Định gồm hai dinh Trấn Biên (Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước) và dinh Phiên Trấn (thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tây Ninh).

- Nhờ khai hoang và điều kiện tự nhiên thuận lợi nên nông nghiệp ở Đàng Trong phát triển rõ rệt, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năng suất lúa rất cao.

- Sự phát triển nông nghiệp ở Đàng Trong dẫn đến sự hình thành một tầng lớp địa chủ lớn, chiếm đoạt nhiều ruộng đất. Nhưng đến đầu thế kỉ XVIII, tình trạng nông dân bần cùng do mất ruộng đất chưa nghiêm trọng như ở Đàng Ngoài.

2. Sự phát triển của nghề thủ công và buôn bán.

- Ở thế kỉ XVII, xuất hiện thêm nhiều làng thủ công (dệt vải lụa, gốm, rèn sắt, đúc đồng, dệt chiếu, làm giấy, khắc bản in...). Nhiều làng thủ công nổi tiếng như gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội), làng dệt La Khê (Hà Nội), rèn sắt ở Nho Lâm (Nghệ An), Hiền Lương, Phú Bài (Thừa Thiên Huế); các làng làm đường mía ở Quảng Nam...

- Nghể thủ công phát triển thì việc buôn bán cũng được mở rộng. Các huyện vùng đồng bằng và ven biển đều có chợ và phố xá. Thời kì này cũng xuất hiện thêm một số đô thị. Ngoài Thăng Long (Kẻ Chợ) với 36 phố phường, ở Đàng Ngoài có Phố Hiến (Hưng Yên). Ở Đàng Trong có Thanh Hà (Thừa Thiên Huế), Hội An (Quảng Nam), Gia Định (thành phố Hồ Chí Minh).

- Trong thế kỉ XVII, nhiều thương nhân châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ) và châu Âu (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp) đến Phố Hiến, Hội An buôn bán tấp nập. Họ mở cửa hàng bán len dạ, đồ pha lê... và mua tơ tằm, đường, trầm hương, ngà voi...

- Chúa Trịnh, chúa Nguyễn cho họ vào buôn bán để nhờ họ mua vũ khí. Nhưng về sau, các chúa thi hành chính sách hạn chế ngoại thương. Do vậy, ở nửa sau thế kỉ XVIII, các thành thị suy tàn dần.

II. VĂN HÓA

1. Tôn giáo.

- Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo:

+ Ở các thế kỉ XVI – XVII, Nho giáo vẫn được chính quyền phong kiến đề cao trong học tập, thi cử và tuyển lựa quan lại. Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế ở thế kỉ XV, nay lại được phục hồi. Trong nông thôn, nhân dân ta vẫn giữ nếp sống văn hóa truyền thống.

+ Làng xã thờ Thành hoàng, gia đình thờ tổ tiên

+ Hàng năm, làng mở hội tại đình, có nơi tại chùa. Dân làng tổ chức biểu diễn chèo, tuồng, múa rối nước hoặc nhiều trò chơi (đánh vật, đua thuyền, đấu cờ, thổi cơm thi, đánh đu, leo dây, đi cà kheo...).

- Hình thức sinh hoạt văn hóa qua các lễ hội đã thắt chặt tình đoàn kết trong thôn xóm và bồi đắp tinh thần yêu quê hương, đất nước.

- Thiên Chúa giáo:

+ Đạo Thiên Chúa phát triển ở châu Âu từ thời cổ - trung đại, trung tâm là Giáo hội La Mã (Rô-ma, Ý). Từ Năm 1533, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha theo thuyền buôn phương Tây đến nước ta truyền bá đạo. Sang thế kỉ XVII – XVIII, cùng với việc chạy đua tìm nguồn lợi và tài nguyên của thương gia châu Âu, hoạt động của các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa ngày càng tăng.

+ Đạo Thiên Chúa không phù hợp với cách cai trị của chúa Trịnh, chúa Nguyễn. Do vậy các chúa đã nhiều lần ngăn cấm nhưng các giáo sĩ vẫn tiếp tục tìm cách truyền đạo.

2. Sự ra đời chữ Quốc ngữ.

- Đến thế kỉ XVII, tiếng Việt đã phong phú và trong sáng. Một số giáo sĩ phương Tây học tiếng Việt để truyền đạo Thiên Chúa. Họ dùng chữ cái La-tinh để ghi âm tiếng Việt.

+ Dùng chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây hợp tác với người Việt Nam, trải qua một quá trình lâu dài.

+ Giáo sĩ Alexandre de Rhôdes người có đóng góp quan trọng trong việc này. Năm 1651, ông cho xuất bản quyển Từ điển Việt – Bồ - La-tinh.

- Chữ quốc ngữ ra đời như vậy. Một thời gian dài, chữ Quốc ngữ chỉ lưu hành trong giới truyền đạo. Đây là chữ viết tiện lợi, khoa học, dễ phổ biến.

3. Văn học và nghệ thuật dân gian.

- Trong các thế kỉ XVI – XVII, tuy văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế nhưng văn học chữ Nôm đã phát triển mạnh hơn trước. Thơ Nôm, truyện Nôm xuất hiện ngày càng nhiều. Có truyện Nôm dài hơn 8000 câu như bộ diễn ca lịch sử Thiên Nam ngữ lục.

- Nội dung truyện Nôm thường viết về hạnh phúc con người, tố cáo những bất công xã hội và bộ máy quan lại thối nát. Những nhà thơ nổi tiếng đương thời như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ... đều có tác phẩm bằng chữ Nôm.

+ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) quê ở huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng), đỗ Trạng nguyên, làm quan triều Mạc rồi từ quan về dạy học, người đương thời quan gọi là Trạng Trình.

+ Đào Duy Từ (1572 - 1634) là nhà thơ lớn, nhà văn hóa, nhà quân sự có tài. Ông sinh tại làng Hoa Trai (Tĩnh Gia – Thanh Hóa), có tài nhưng không được chúa Trịnh cho đi thi. Vào Đàng Trong, ông được chúa Nguyễn phong tước hầu và trọng dụng trong việc xây dựng hệ thống Lũy Thầy. Ông là người có công phát triển nghề hát bội ở Đàng Trong và la người khởi thảo tuồng Sơn Hậu.

- Sang nửa đầu thế kỉ XVIII, văn học dân gian phát triển phong phú. Bên cạnh những truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị Độ Mai, Thạch Sanh... còn có truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn... truyện tiếu lâm. Thể thơ lục bát và song thất lục bát được sử dụng rộng rãi.

- Điểm nổi bật ở các thế kỉ này là sự phục hồi và phát triển của nghệ thuật dân gian. Nhiều khách nước ngoài đến nước ta thế kỉ XVII còn được xem biểu diễn múa trên dây, múa đèn và các trò ảo thuật. Điêu khắc gỗ trong các đình, chùa diễn tả cảnh sinh hoạt thường ngày ở nông thôn (chèo thuyền, đấu vật, chọi gà, đi cày, tắm ao, đánh cờ...), nét chạm trổ đơn giản mà dứt khoát.

- Nghệ thuật sân khấu cũng đa dạng và phong phú. Khắp nông thôn, đâu đâu cũng có gánh hát. Nội dung các vở chèo, tuồng, hát ả đào... thường phản ánh đời sống lao động cần cù, vất vả nhưng lạc quan của nhân dân, lên án kẻ gian nịnh và ca ngợi tình thương yêu con người.