Bài 16. Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Tình hình kinh tế.
- Từ nửa sau thế kỉ XIV, nhà nước không còn quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, không chăm lo tu sửa, bảo vệ đê điều, các công trình thủy lợi... nên nhiều năm bị mất mùa, đói kém. Nhiều nông dân phải bán ruộng đất, vợ, con cho các quý tộc, địa chủ giàu có và biến thành nô tì, bị bóc lột nặng nề. Vào nửa sau thế kỉ XIV có 9 lần vỡ đê, lụt lớn. Nhiều năm vừa bị hạn vừa bị lụt, có hơn 10 nạn đói lớn.
- Vương hầu, quý tộc, nhà chùa, địa chủ nắm trong tay rất nhiều rộng đất. Ruộng đất công ở các làng, xã bị xâm lấn, khẩu phần ruộng đất của nông dân bị thu hẹp, đời sống ngày càng bấp bênh, cực khổ. Thế nhưng triều đình vẫn bắt dân nghèo mỗi năm phải nộp ba quan tiền thuế đinh.
2. Tình hình xã hội.
- Mặc cho đời sống của nhân dân sa sút nghiêm trọng, vua, quan, quý tộc nhà Trần vẫn lao vào cuộc sống ăn chơi sa đọa.
- Quan lại, vương hầu quý tộc nhân đó thả sức ăn chơi xa hoa, bắt quân, dân xây dinh thự, chùa chiền liên miên. Trong triều, nhiều kẻ tham lam, nịnh thần làm rối loạn kỉ cương phép nước, triều chính bị lũng loạn. Chu Văn An là Tư nghiệp Quốc tử giám đã dâng sớ đòi chém 7 nịnh thần nhưng vua không nghe nên ông đã từ quan.
- Nhà Trần càng suy sụp hơn từ sau khi Trần Dụ Tông chết (1369) và Dương Nhật Lễ lên nắm quyền (1369 - 1370).
+ Trần Dụ Tông không có con trai, Nhật Lễ là con nuôi của một đại vương nhà Trần được Hoàng thái hậu đưa lên ngôi.
+ Nhật Lễ là con kép hát họ Dương nên khi làm vua đã rắp tâm xóa bỏ họ Trần (tìm cách giết các quý tộc lớp trên của nhà Trần) thay bằng họ Dương.
+ Một số quý tộc Trần mưu giết Nhật Lễ không thành còn bị sát hại. Hàng ngày, Nhật Lễ chỉ vui chơi, hoang dâm và rượu chè.
- Nhà Trần còn bất lực trong việc đối phó với các cuộc tấn công của Cham-pa và yêu sách ngang ngược của nhà Minh, đời sống nhân dân càng khổ cực.
- Bị áp bức bóc lột tàn tệ, nông dân, nô tì mâu thuẫn ngày càng sâu sắc với giai cấp thống trị. Bởi vậy, họ đã vùng dậy đấu tranh mạnh mẽ.
- Từ giữa thế kỉ XIV, nông dân, nô tì đã nổi dậy khởi nghĩa.
- Cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở Hải Dương.
Đầu năm 1344, Ngô Bệ hô hào nông dân ở Yên Phụ (Hải Dương) đứng lên khởi nghĩa. Bị quân đội triều đình đàn áp, khởi nghĩa thất bại. Đến năm 1358, Ngô Bệ lại nổi dậy ở Hải Dương, đến đầu năm 1360 thì bị giết.
- Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thanh, Nguyễn Kỵ ở Thanh Hóa.
Năm 1379, Nguyễn Thanh tụ tập nông dân khởi nghĩa, tự xưng là Linh đức vương, hoạt động ở vùng sông Chu (Thanh Hóa). Nguyễn Kỵ cũng xưng vương, hoạt động ở Nông Cống. Cùng năm 1379, Nguyễn Bổ nổi dậy ở Bắc Giang.
- Cuộc khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn ở Quốc Oai – Hà Nội.
Đầu năm 1390, nhà sư Phạm Sư Ôn hô hào nông dân nổi dậy ở Quốc Oai. Nghĩa quân hoạt động ở vùng Sơn Tây, lực lượng hùng hậu đã kéo quân về đánh chiếm kinh thành Thăng Long trong ba ngày. Vua Trần phải bỏ thành chạy lên Bắc Giang. Sau đó, cuộc khởi nghĩa bị triều đình đàn áp.
- Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhữ Cái ở Sơn Tây.
Năm 1399, Nguyễn Nhữ Cái nổi dậy khởi nghĩa, hoạt động ở vùng Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang. Đến năm 1400, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp.
II. NHÀ HỒ VÀ CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LY
1. Nhà Hồ thành lập (1400).
- Vào cuối thế kỉ XIV, các cuộc đấu tranh của nông dân đã làm cho nhà Trần suy yếu, làng xã tiêu điều, dân đinh giảm sút. Nhà Trần không còn đủ sức giữ vai trò của mình nên sự sụp đổ là khó tránh khỏi. Giữa lúc đó xuất hiện một nhân vật mới là Hồ Quý Ly.
- Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của Hồ Liêm (Hồ Liêm từ Nghệ An ra Thanh Hóa, được một viên quan đại thần họ Lê nhận làm con nuôi). Ông là người có tài, lại có hai người cô là phi tần của vua Trần Minh Tông nên được vua Trần trọng dụng. Hồ Quý Ly đã nắm giữ chức vụ cao nhất trong triều đình. Sau khi một số quý tộc nhà Trần mưu giết Hồ Quý Ly không thành (năm 1399), năm 1400, ông phế truất vua Trần và lên làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Ngu – nhà Hồ được thành lập.
2. Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly.
Ngay từ khi còn là đại thần, Hồ Quý Ly đã thực hiện cải cách trên nhiều lĩnh vực:
- Về chính trị: Ông cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần các võ quan cao cấp do quý tộc tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phải họ Trần nhưng có tài năng và thân cận với mình. Ông đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp. Hồ Quý Ly đặt lệ cử các quan ở triều đình về các lộ hỏi thăm đời sống nhân dân và tìm hiểu tình hình làm việc của quan lại để thăng hay giáng chức.
- Về kinh tế tài chính: Ông cho phát hành tiền giấy thay thế tiền đồng, ban hành chính sách hạn điền, quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng.
+ Năm 1397, chính sách hạn điền quy định, Đại vương và Trưởng công chúa không bị hạn chế ruộng đất tư, số còn lại không được sở hữu quá 10 mẫu, số ruộng thừa phải sung công.
+ Năm 1402, nhà Hồ định biểu thuế đinh chỉ đánh vào người có ruộng; người không có ruộng, trẻ con mồ côi, góa phụ không phải nộp. Thuế ruộng đánh theo pháp lũy tiến, có nhiều ruộng đóng nhiều, không có ruộng không phải đóng.
- Về xã hội: Ông ban hành chính sách hạn chế số nô tì được nuôi của các vương hầu, quý tộc, quan lại. Những năm có nạn đói, nhà Hồ lệnh cho các quan địa phương đi khám xét, bắt nhà giàu thừa thóc phải bán cho dân đói và tổ chức nơi chữa bệnh cho dân.
+ Về văn hóa, giáo dục: Ông bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục, cho dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy cho vua Trần và phi tần, cung nữ.
+ Ông cũng sửa đổi cả chế độ thi cử, học tập.
+ Năm 1397, ông đề nghị đặt chức học quan ở các lộ và cấp ruộng công cho các địa phương để sử dụng vào việc học.
- Về quân sự: Để đề phòng giặc ngoại xâm, ông đã thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng.
+ Ông cho làm lại sổ đinh để tăng quân số, tích cực cho sản xuất vũ khí, chế tạo ra súng thần cơ và lâu thuyền.
+ Ở những nơi hiểm yếu đều bố trí phòng thủ, xây dựng một số thành kiên cố như thành Tây Đô ở Vĩnh Lộc – Thanh Hóa (thành nhà Hồ), thành Đa Bang (Ba Vì – Hà Nội)...
3. Ý nghĩa, tác dụng của cải cách Hồ Quý Ly.
- Trước tình trạng suy sụp của nhà Trần và cuộc khủng hoảng xã hội cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly đã thực hiện cuộc cải cách khá toàn diện để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
- Những cải cách của Hồ Quý Ly đã góp phần hạn chế tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền. Cải cách văn hóa, giáo dục có nhiều tiến bộ.
- Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt để (gia nô, nô tì chưa được giải phóng thân phận), chưa phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân.