Bài 11. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075 - 1077)
I. GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT (1075)
1. Nhà Tống
âm mưu xâm lược nước ta.
- Từ giữa
thế kỉ XI, nhà Tống (Trung Quốc) gặp khó khăn chồng chất, ở trong nước ngân khố
cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn, nhân dân đói khổ, nhiều nơi
nổi dậy đấu tranh. Vùng biên cương phía bắc của nhà Tống thường xuyên bị hai
nước Liêu – Hạ quấy nhiễu.
- Nhà Tống
muốn dùng chiến tranh để giải quyết tình trạng khủng hoảng nói trên nên tiến
hành xâm lược Đại Việt.
- Nhà Tống
xúi giục vua Cham-pa đánh Đại Việt từ phía nam. Còn ở biên giới phía bắc, nhà
Tống ngăn cản việc buôn bán, đi lại của nhân dân hai nước, dụ dỗ các tù trưởng
dân tộc ít người.
2. Nhà Lý
chủ động tiến công để phòng vệ.
- Phát hiện
mưu đổ của nhà Tống, vua tôi nhà Lý đã chủ động tiến hành các biện pháp đối
phó. Thái uý Lý Thường Kiệt được cử làm người chỉ huy, tổ chức cuộc kháng
chiến.
+ Lý Thường
Kiệt sinh năm 1019 tại phường Thái Hoà, Thăng Long (nay thuộc Hà Nội). Từ nhỏ,
ông đã có chí hướng ham đọc binh thư và luyện tập võ nghệ.
+ Năm 23
tuổi, ông được tuyển vào trong triều giữ chức quan nhỏ. Là người có tài năng
phi thường, trải qua mấy đời vua, ông giữ nhiều chức quan trọng và được vua Lý
Thánh Tông phong làm Thái uý.
- Lý Thường
Kiệt cho quân đội luyện tập và canh phòng suốt ngày đêm. Các tù trưởng được
phong chức tước cao, được lệnh mộ thêm binh đánh trả các cuộc quấy phá, làm
thất bại âm mưu dụ dỗ của nhà Tống. Để ổn định địa phận phía nam, Lý Thánh Tông
cùng với Lý Thường Kiệt đem quân đánh bại ý đồ tiến công phối hợp của nhà Tống
với Cham-pa.
- Trước
việc nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt, Lý Thường Kiệt thực hiện chủ
trương độc đáo, sáng tạo “tiến công trước để tự vệ”. Ông gấp rút chuẩn bị cho
cuộc tấn công vào những nơi tập trung quân lương của nhà Tống, gần biên giới
Đại Việt.
+ Châu Ung,
châu Khâm và châu Liêm nằm gần biên giới phía bắc nước ta. Đây là ba căn cứ
xuất phát cũng là địa điểm tập kết của quân Tống. Lương thực và khí giới được
tích trữ tại nơi này.
+ Từ ba căn
cứ trên, quân Tống tiến hành những trận đánh thăm dò vào Đại Việt.
- Tháng
10/1075, Lý Thường Kiệt cùng Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân thuỷ - bộ, chia
làm hai đạo tấn công vào đất Tống. Quân bộ do các tù trưởng Thân Cảnh Phúc,
Tông Đản chỉ huy dân binh miền núi đánh vào châu Ung (Quảng Tây). Lý Thường
Kiệt chỉ huy cánh quân đường thuỷ, đổ bộ vào các châu Khâm, Liên (Quảng Đông).
Sau khi tiêu diệt các căn cứ tập kết quân, phá huỷ các kho hàng của giặc, quân
của Lý Thường Kiệt tiến về bao vây thành Ung Châu, căn cứ của quân Tống. Sau 42
ngày chiến đấu, quân nhà Lý hạ được thành Ung Châu, tướng Tô Giám nhà Tống phải
tự tử. Đạt được mục tiêu, Lý Thường Kiệt chủ động rút quân, chuẩn bị phòng
tuyến chặn địch ở trong nước.
- Trận tập
kích này đã đánh đòn phủ đầu làm hoang mang quân Tống, đẩy chúng vào thế bị
động.
II.
GIAI ĐOẠN THỨ HAI (1076 - 1077)
1. Kháng
chiến bùng nổ.
- Sau khi
rút quân về nước, Lý Thường Kiệt hạ lệnh cho các địa phương ráo riết chuẩn bị
bố phòng. Các tù trưởng dân tộc ít người ở gần biên giới Việt – Tống đã cho
quân mai phục những vị trí chiến lược quan trọng. Lý Thường Kiệt bố trí một lực
lượng thuỷ binh đóng ở Đông Kênh do tướng Lý Kế Nguyên chỉ huy để chặn thuỷ
binh địch. Bộ binh được bố trí suốt dọc theo chiến tuyến sông Như Nguyệt. Đội
quân chủ lực này do chính Lý Thường Kiệt chỉ huy và đồn trú tại khu vực Yên Phụ
(Yên Phong – Bắc Ninh), cách bến Như Nguyệt vài km.
+ Phòng
tuyến chủ yếu được xây dựng trên bờ Nam sông Như Nguyệt. Đây là con sông chặn
ngang tất cả các ngả đường bộ từ Quảng Tây (Trung Quốc) vào Thăng Long.
+ Sông Như
Nguyệt như một chiến hào tự nhiên rất khó có thể vượt qua. Phòng tuyến được đắp
bằng đất cao, vững chắc, có nhiều lớp giậu tre dày đặc, dọc theo khúc sông từ
Đa Phúc đến Phả Lại, dài khoảng 100 km.
- Thất bại
nặng nề và bất ngờ ở Ung Châu làm cho nhà Tống vô cùng tức tối. Chúng liền tiến
hành cuộc xâm lược Đại Việt.
- Cuối năm
1076, một đạo quân lớn gồm 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, một vạn ngựa chiến cùng 20
vạn dân phu do các tướng Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy chuẩn bị tiến vào nước
ta. Một đạo quân khác, do Hoà Mâu dẫn đầu theo đường biển vào tiếp ứng.
- Tháng
1/1077, khoảng 30 vạn quân Tống vượt vửa ải Nam Quan qua Lạng Sơn tiến vào nước
ta. Quân đội nhà Lý đánh những trận nhỏ nhằm cản bước tiến của chúng. Khi tiến
đến bờ Bắc sông Như Nguyệt, quân Tống lúng túng vì trước mặt là sông và bờ bên
kia là cả một chiến luỹ rất kiên cố.
- Bị phòng
tuyến Như Nguyệt chặn lại, Quách Quỳ phải đóng quân bên bờ Bắc sông Như Nguyệt
chờ thuỷ quân đến. Nhưng lúc đó, thuỷ quân của chúng bị quân Lý Kế Nguyên chặn
đánh liên tiếp 10 trận tại vùng ven biển nên không thể tiến sâu vào để hỗ trợ
cho đồng bọn.
2. Cuộc
chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt.
- Chờ mãi
không thấy thuỷ quân đến, quân Tống nhiều lần tìm cách tấn công quân ta. Chúng
bắc cầu phao, đóng bè lớn ào ạt tiến qua sông đánh vào phòng tuyến của ta. Quân
nhà Lý đã kịp thời phản công mãnh liệt, mưu trí đẩy lùi chúng về phía bờ Bắc.
- Thất
vọng, Quách Quỳ chuyển sang củng cố, phòng ngự, quân sĩ chán nản, mệt mỏi, chết
dần chết mòn.
- Cuối mùa
xuân 1077, Lý Thường Kiệt mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến của địch. Đang
đêm, quân ta lặng lẽ vượt qua sông Như Nguyệt, bất ngờ đánh thẳng vào các doanh
trại giặc. Quân Tống thua to và lâm vào tình thế khó khăn, tuyệt vọng.
- Giữa lúc
đó, Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp mềm dẻo, thương
lượng, đề nghị giảng hoà, Quách Quỳ chấp nhận và quân Tống rút về nước.
- Cuộc
chiến ở Như Nguyệt là trận quyết định số phận của quân Tống xâm lược. Đây cũng
là một trong những trận đánh tuyệt vời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc. Người chỉ huy trận đánh – Lý Thường Kiệt là vị tướng tài, tên tuổi ông đã
trở thành niềm tự hào của dân tộc.
- Cuộc
kháng chiến kết thúc thắng lợi, quân Tống buộc phải từ bỏ mộng xâm lược Đại
Việt. Nền độc lập, tự chủ của Đại Việt được bảo vệ.