36. Biến động số lượng cá thể của quần thể sinh vật
I. BIẾN ĐỘNG SỐ LƯỢNG CÁ THỂ
- Biến động số lượng cá thể của quần thể là sự tăng hoặc giảm số lượng cá thể.
1. Biến động theo chu kì
- Biến động số lượng cá thể của quần thể theo chu kì là biến động xảy ra do những thay đổi có chu kì của điều kiện môi trường.
- Ví dụ:
+ Sự biến động số lượng mèo rừng Canada đúng theo chu kỳ biến động số lượng của thỏ.
+ Chim cu gáy ăn hạt xuất hiện nhiều vào mùa thu hoạch lúa, ngô.
2. Biến động không theo chu kì
- Biến động số lượng cá thể của quần thể không theo chu kì là biến động mà số lượng cá thể của quần thể tăng hay giảm một cách đột ngột do điều kiện bất thường của thời tiết như lũ lụt, bão, cháy rừng, dịch bệnh… hay do hoạt động khai thác tài nguyên quá mức của con người gây nên.
- Ví dụ ở Việt Nam:
+ Miền Bắc: số lượng bò sát và ếch, nhái giảm vào những năm có giá rét (nhiệt độ < 80C).
+ Miền Bắc và Miền Trung: số lượng bò sát, chim, thỏ… giảm mạnh sau những trận lũ lụt.
II. NGUYÊN NHÂN GÂY BIẾN ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH SỐ LƯỢNG CÁ THỂ CỦA QUẦN THỂ
1. Nguyên nhân gây biến động số lượng cá thể của quần thể
a) Do thay đổi của các nhân tố sinh thái vô sinh
- Nhóm các nhân tố sinh thái vô sinh tác động trực tiếp lên sinh vật mà không phụ thuộc vào mật độ cá thể trong quần thể.
- Các nhân tố sinh thái vô sinh ảnh hưởng đến trạng thái sinh lí của các cá thể. Sống trong điều kiện tự nhiên không thuận lợi, sức sinh sản của cá thể giảm, khả năng thụ tinh kém, sức sống của con non thấp…
b. Do thay đổi của các nhân tố sinh thái hữu sinh
- Nhóm các nhân tố sinh thái hữu sinh luôn bị chi phối (phụ thuộc) bởi mật độ cá thể của quần thể.
- Sự cạnh tranh giữa các cá thể cùng một đàn, số lượng kẻ thù, sức sinh sản và mức độ tử vong, sự phát tán của các cá thể… ảnh hưởng rất lớn tới sự biến động số lượng cá thể trong quần thể.
2. Sự điều chỉnh số lượng cá thể của quần thể
- Trong điều kiện môi trường sống thuận lợi, nguồn thức ăn dồi dào, ít kẻ thù… mức sinh sản tăng, mức tử vong giảm, nhập cư tăng → Số lượng cá thể của quần thể tăng lên.
- Ngược lại, khi số lượng cá thể tăng lên cao, nguồn sống trong môi trường trở lên thiếu hụt, cạnh tranh gay gắt giữa các cá thể, làm mức độ tử vong tăng và mức sinh sản giảm, xuất cư tăng → Số lượng cá thể của quần thể lại được điều chỉnh giảm đi.
3. Trạng thái cân bằng của quần thể
- Khả năng tự điều chỉnh số lượng cá thể khi số lượng cá thể của quần thể giảm xuống quá thấp hoặc tăng lên quá cao, dẫn tới trạng thái cân bằng của quần thể.
- Quần thể cân bằng khi số lượng cá thể ổn định và phù hợp với cung cấp nguồn sống của môi trường.