17. Dòng điện trong chất bán dẫn
I. Chất bán dẫn và tính
chất
Nhiều chất không thể xem là kim loại hoặc điện môi (tiêu
biểu là gemani và silic) được gọi là chất bán dẫn hoặc gọi tắt là bán
dẫn.
Tính chất:
- Ở nhiệt độ thấp, điện trở suất của chất bán dẫn siêu tinh
khiết rất lớn. Khi nhiệt độ tăng, điện trở suất giảm nhanh, hệ số
nhiệt điện trở có giá trị âm gọi là sự dẫn điện riêng của chất
bán dẫn.
- Điện trở suất của chất bán dẫn phụ thuộc mạnh vào
tạp chất.
- Điện trở suất của chất bán dẫn cũng giảm đáng kể khi
nó bị chiếu sáng hoặc bị tác dụng của các tác nhân ion hoá khác.
II. Hạt tải điện trong
chất bán dẫn. Bán dẫn loại n và bán dẫn loại p
1. Bán dẫn loại n và bán
dẫn loại p
Lấy một thỏi bán dẫn và giữ một đầu ở nhiệt độ cao,
một đầu ở nhiệt độ thấp. Chuyển động nhiệt có xu hướng đẩy hạt
tải điện về phía đầu lạnh, nên đầu lạnh sẽ tích điện cùng dấu với
hạt tải điện.
- Thí nghiệm với mẫu silic pha tạp phôtpho (P), asen (As), hoặc
antimon (Sb), chứng tỏ hạt tải điện trong đó mang điện âm gọi là loại
n.
- Với mẫu silic pha tạp bo (B), nhôm (Al), hoặc gali (Ga),
thí nghiệm chứng tỏ hạt tải điện mang điện dương gọi là loại p.
2. Êlectron và lỗ trống
Chất bán dẫn có hai loại hạt tải điện là êlectron và lỗ
trống.
Dòng điện trong chất bán dẫn là dòng chuyển dời có hướng
của các êlectron tự do và lỗ trống dưới tác dụng của điện trường.
3. Tạp chất cho (đôno) và
tạp chất nhận (axepto)
Bán dẫn chứa đôno (tạp chất cho) là loại n, có mật độ
êlectron rất lớn so với mật độ lỗ trống. Bán dẫn chứa axepto (tạp
chất nhận) là loại p, có mật độ lỗ trống rất lớn so với mật độ
êlectron.
III. Lớp chuyển tiếp p-n
Là chỗ tiếp xúc của miền mang tính dẫn p và miền mang
tính dẫn n được tạo ra trên một tinh thể bán dẫn.
1. Lớp nghèo
Ở lớp chuyển tiếp p-n hình thành một lớp không có hạt
tải điện gọi là lớp nghèo. Ở lớp nghèo, về phía bán dẫn n có các
ion đôno tích điện dương và về phía bán dẫn p có các ion axepto tích
điện âm.
Điện trở của lớp nghèo
rất lớn.
2. Dòng điện chạy qua lớp
nghèo
Nếu đặt một điện trường có chiều hướng từ bán dẫn p sang
bán dẫn n thì lớp nghèo có hạt tải điện và trở nên dẫn điện. Vì
vậy sẽ có dòng điện chạy qua lớp nghèo từ miền p sang miền n (chiều
thuận). Khi đảo chiều điện trường ngoài, dòng điện không thể chạy từ
miền n sang miền p (chiều ngược).
3. Hiện tượng phun hạt tải
điện
Khi dòng điện chạy qua lớp chuyển tiếp p-n theo chiều
thuận, các hạt tải điện đi vào lớp nghèo có thể đi tiếp sang miền
đối diện gây ra hiện tượng phun hạt tải điện từ miền này sang miền
khác. Tuy nhiên, chúng không thể đi xa quá khoảng 0,1 mm.
IV. Điôt bán dẫn và mạch
chỉnh lưu dùng điôt bán dẫn
Điôt bán dẫn thực chất là một lớp chuyển tiếp p–n. Vì
dòng điện chủ yếu chỉ chạy qua điôt theo chiều từ p đến n, nên khi
nối nó vào mạch điện xoay chiều, dòng điện cũng chỉ chạy theo một
chiều. Ta nói điôt bán dẫn có tính chỉnh lưu nên được dùng để lắp mạch
chỉnh lưu, biến điện xoay chiều thành một chiều.
V. TranZito lưỡng cực n-p-n.
Cấu tạo và nguyên lí hoạt động
1. Hiệu ứng tranzito
Xét một tinh thể bán dẫn trên đó có tạo ra một miền p và
hai miền n1 và n2 như hình vẽ. Mật độ êlectron trong
miền n2 rất lớn so với mật độ lỗ trống trong miền p. Trên
các miền này có hàn các điện cực C, B, E. Điện thế ở các cực E, B,
C giữ ở các giá trị VE = 0, VB vừa đủ để lớp
chuyển tiếp p-n2 phân cực thuận, VC có giá trị tương
đối lớn (cỡ 10 V).
- Khi miền p dày: không có hiệu ứng tranzito.
- Khi miền p mỏng: có hiệu ứng tranzito.
Hiệu ứng dòng điện chạy từ B sang E làm thay đổi điện
trở RCB gọi là hiệu ứng tranzito.
Hình a: Khi miền p dày: không có hiệu ứng tranzito
Hình b: Khi miền p mỏng: có hiệu ứng tranzito
2. Tranzito lưỡng cực n-p-n
Tinh thể bán dẫn được pha tạp để tạo ra một miền p rất
mỏng kẹp giữa hai miền n1 và n2 đã mô tả ở trên
gọi là tranzito lưỡng cực n-p-n.
Ứng dụng phổ biến nhất của tranzito là để lắp mạch khuếch
đại và khoá điện tử.